Yêu mến Đức Bênêđíctô, hãy nghe ĐHY Filoni. Éo le: Vợ bị kết tội ngoại tình với chồng, án treo cổ

Tin thế giới

Tin thế giới

Mọi chuyện bắt đầu vào năm 2018 khi anh Hamada Teya Keffi quyết định chuyển từ Hồi Giáo sang Công Giáo. Vợ anh Nada Hamad Koko, dưới áp lực của gia đình đã phản đối kịch liệt Keffi và buộc anh phải quay trở lại Hồi Giáo. Áp lực lớn nhất là đe doạ ly hôn. Tuy nhiên, anh không nhượng bộ.
1. Éo le: Vợ bị kết tội ngoại tình với chồng, nguy cơ bị tử hình, gây ra lo ngại về tự do tôn giáo ở Sudan

Christian Solidarity Worldwide, tức là Tổ Chức Liên Đới Kitô Giáo Toàn Cầu, gọi tắt là CSW, một tổ chức đấu tranh để bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng - đã cáo buộc chính phủ quân sự của Sudan đã cản trở những tiến bộ đạt được của chính phủ dân sự kể từ cuộc đảo chính vào ngày 25 tháng 10 năm ngoái, 2021.


Mối quan ngại này được làm nổi bật hơn nữa bởi phiên tòa đang diễn ra đối với một cặp vợ chồng bị tội ngoại tình với nhau.

Mọi chuyện bắt đầu vào năm 2018 khi anh Hamada Teya Keffi quyết định chuyển từ Hồi Giáo sang Công Giáo. Vợ anh Nada Hamad Koko, dưới áp lực của gia đình đã phản đối kịch liệt Keffi và buộc anh phải quay trở lại Hồi Giáo. Áp lực lớn nhất là đe doạ ly hôn. Tuy nhiên, anh không nhượng bộ.

Vì thế, Koko, và gia đình cô đệ đơn ly hôn anh chồng Keffi.

Theo luật, một phụ nữ Hồi giáo không được phép kết hôn với một người đàn ông không theo đạo Hồi. Vì thế việc ly hôn được chấp thuận nhanh chóng, và Koko trở về ở với gia đình. Tuy nhiên, vào năm ngoái, nhớ chồng, nhớ con, cô ấy lại trở về nhà mình, và theo đạo Công Giáo.

Sau khi phát hiện Koko đã theo đạo Công Giáo. Gia đình cô cho rằng điều đó làm nhục nhã cho gia đình nên đã đệ đơn kiện hình sự, và hai vợ chồng hiện đã bị buộc tội ngoại tình.

CSW nói tờ Crux “Chúng tôi vô cùng lo ngại trước việc truy tố hình sự bà Koko và ông Kaffi. CSW đang kêu gọi bỏ các cáo buộc hình sự đối với họ và cải cách pháp luật hơn nữa để bảo đảm rằng quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, bao gồm cả quyền thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, được bảo đảm đầy đủ cho mọi người dân Sudan”

Trong trường hợp bị kết tội ngoại tình, theo luật Sharia của Hồi Giáo, người đàn bà bị phạt nặng hơn người đàn ông với nguy cơ bị treo cổ. Người đàn ông ngoại tình chỉ bị tối đa là 5 năm tù.


Source:Crux

2. Toàn văn bài viết của Đức Hồng Y Filoni lên tiếng bênh vực Đức Bênêđíctô XVI

Giữa sự đau khổ tột cùng của cá nhân Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và của cả Giáo Hội trước những tấn kích kinh hoàng nhắm vào vị Giáo Hoàng thánh thiện, khiêm nhường, đáng kính nhằm làm tiền đề cho cái gọi là Tiến Trình Công Nghị tại Đức, Đức Hồng Y Fernando Filoni, nguyên tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc đã có một bài viết nhan đề “Chi è Benedetto XVI?”, nghĩa là “Đức Bênêđíctô XVI là ai?”.

Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Đức Bênêđíctô XVI là ai? Đây là câu hỏi đã xuất hiện trong đầu của nhiều người trong những ngày gần đây; những ngày đau khổ tột cùng cho ngài và cho Giáo Hội.

Vào đầu triều đại giáo hoàng của mình vào năm 2005, ngài muốn nói rằng ngài thấy mình như một người đầy tớ khiêm nhường trong vườn nho của Chúa, khi nghĩ đến dụ ngôn được tìm thấy trong Phúc âm Thánh Matthêu (21: 33-43). Trong dụ ngôn đó, Chúa Giêsu chỉ trích hành vi của những người, do sự bất trung của mình, đã hủy hoại vườn nho được trồng bằng sự hy sinh và lòng tận tụy. Trong vườn nho đó, được Thiên Chúa yêu thương, người chủ đã cử các tá điền đến để bảo đảm nó được chăm bón tốt. Nó thuộc về ông; và các tá điền lẽ ra phải chăm sóc nó chứ không chiếm đoạt nó.

Tôi được biết đến cá nhân Đức Bênêđíctô XVI trên hết vì khi bắt đầu sứ vụ giáo hoàng của ngài, ngài đã gọi tôi đến Rôma từ Phi Luật Tân, nơi một năm trước đó ngài đã chỉ định tôi làm đại diện giáo hoàng của ngài.

Tôi nhớ rõ cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi; đó là vào đầu tháng 7 năm 2007. Ngài đã bổ nhiệm tôi là Sostituto, hay Phụ tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, tức là một trong những cộng tác viên thân cận nhất của ngài. Điều này cho phép tôi đến thăm ngài ít nhất một lần một tuần để nói về những vấn đề gần gũi với tấm lòng của ngài và nhận được sự hướng dẫn thích hợp về nhiều khía cạnh của đời sống Giáo triều và Giáo Hội.

Chức vụ Phụ tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cũng được giao trách nhiệm tổ chức các chuyến đi của Đức Giáo Hoàng, do đó trong suốt 4 năm tôi tại vị, trước khi được bổ nhiệm làm tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, tôi đã có cơ hội tháp tùng ngài đến nhiều quốc gia khác nhau, nơi ngài đã thực hiện các cuộc tông du của mình.

Trong những năm đó, vấn nạn ấu dâm nổi lên với mức độ độc hại như một dịch bệnh trong Giáo Hội. Nó đã không được biết đến trong các thuật ngữ đã dần dần xuất hiện. Nhưng tôi luôn thấy rõ rằng Đức Bênêđíctô XVI sẵn sàng đối mặt với nó với quyết tâm.

Trước hết, tôi có thể làm chứng cho sự trung thực sâu sắc và rất cao về mặt đạo đức và trí tuệ của ngài.

Điều này là không thể nghi ngờ, ngay cả khi không thiếu những người ngày nay đang tập hợp lực lượng chống lại ngài. Họ có tự do để làm việc đó, nhưng tôi có thể khẳng định rằng, tôi chưa hề tìm thấy ở ngài bóng dáng hay toan tính nhằm che giấu, giảm thiểu điều gì. Sự nhạy cảm của ngài trong việc giải quyết mọi việc với một ý thức đạo đức sâu sắc không thể bị hồ nghi với sự không chắc chắn hay bất cứ điều gì khác.

Tôi cũng biết rõ sự đau khổ tột cùng của ngài khi đối mặt với những câu hỏi nghiêm trọng của Giáo Hội, và tôi nhớ rõ ràng một câu nói mà ngài thường thốt ra với một tiếng thở dài: “Vực thẳm mà chúng ta rơi vào vì sự khốn nạn của con người mới khó hiểu biết bao!” Điều này khiến ngài đau khổ và đôi khi ngài im lặng trong một thời gian dài. Còn hơn thế nữa nếu những khốn khổ của nhân sinh này đã chạm đến những người trong Giáo Hội.

Ngài có một sự nhạy cảm đáng chú ý đối với các nạn nhân. Khi chuẩn bị cho các chuyến tông du (đến Hoa Kỳ, Úc, v.v.), ngài nhận được yêu cầu gặp gỡ các nạn nhân bị lạm dụng, ngài đã kể cho tôi nghe về họ; ngài muốn biết suy nghĩ của tôi về cách đáp ứng những yêu cầu này.

Tôi có thể khẳng định rằng ngài đã khuyên hai điều rất quan trọng đối với ngài. Thứ nhất là tôn trọng sâu sắc các nạn nhân mà danh tính của họ phải được bảo vệ; do đó, ngài muốn các cuộc họp diễn ra xa khỏi cái nhìn của máy ảnh hoặc các dụng cụ thu hình khác. Ngài không muốn bất kỳ khán giả nào, nhưng ngài muốn tôi nằm trong số rất ít những người có mặt một cách kín đáo.

Thứ hai: Ngài không muốn cuộc gặp gỡ trở thành một loại “tiếp kiến” chỉ với một cái bắt tay đơn giản và một cái nhìn lướt qua, mà là một buổi gặp gỡ cầu nguyện thực sự; nó phải có một chiều kích tâm linh và diễn ra trước mặt Thiên Chúa, Đấng mà từ đó ta phải cầu xin lòng thương xót.

Vì lý do này, ngài chấp nhận ý tưởng rằng các buổi gặp gỡ nên diễn ra trong nhà nguyện, trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Vì vậy, sau vài phút cầu nguyện với các nạn nhân, sau những giây phút nặng nề xúc động, ngài sẽ đọc Kinh Lạy Cha với họ; ngài chú ý đến từng người trong số họ, lắng nghe với cảm xúc có thể nhìn thấy và sờ thấy được, và cuối cùng, ngài giao cho mỗi người một chuỗi tràng hạt.

Trong những cuộc gặp gỡ đó, không chỉ có cảm giác về sự sỉ nhục mà các nạn nhân phải chịu đựng, mà còn có sự sỉ nhục của một người trong Giáo Hội, là người không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng những hành động hèn hạ đó lại có thể xảy ra, mà bây giờ lại trao ra dầu xoa dịu là lời cầu nguyện và sự an ủi từ tình liên đới nhân danh Thiên Chúa, Đấng đã hạ mình và gánh trên vai thân phận con người và tội lỗi của nó.

Trong mọi cuộc gặp gỡ, luôn có một sự công nhận thực sự rằng con người và tinh thần đã bị xâm phạm. Luôn có một sự phó thác cho Thiên Chúa bởi những anh chị em cảm động tột độ; có một lời khẩn xin tha thứ của toàn thể Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa, và có một cam kết rằng Đức Bênêđíctô XVI sẽ kết hợp lòng thương xót và công lý. Điều đó ngài đã làm qua các bước mà trước đây chưa hề tồn tại.

Đây là Đức Bênêđíctô XVI, người mà tôi đã biết cận cảnh. Một “mục tử”, một “công nhân” trong vườn nho của Chúa, người luôn có trong trái tim mình - một “lời cầu xin sâu sắc cho tất cả các Giáo Hội” và cho một nhân loại đau khổ, sa ngã và vô thần, phù hợp với những gì ngài đã nói khi ngài đến thăm, vào buổi chiều xa xôi ngày 25 tháng 4 năm 2005, tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, nơi Vị Tông đồ Dân ngoại yên nghỉ.
Source:ACI Stampa

3. Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm giám mục Công Giáo mới của Fatima

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức của Đức Hồng Y António Marto vào hôm thứ Sáu và bổ nhiệm một vị giám mục mới cho giáo phận Leiria-Fátima.

Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm Đức Cha José Ornelas Carvalho lãnh đạo giáo phận Bồ Đào Nha có một trong những đền thờ Đức Mẹ nổi tiếng nhất thế giới vào ngày 28 tháng Giêng.

Đức Cha Ornelas đã lãnh đạo giáo phận Setúbal, tây nam Bồ Đào Nha, kể từ năm 2015 và được bầu làm chủ tịch hội đồng giám mục Bồ Đào Nha vào năm 2020.

“Đức Cha José Ornelas mang theo tài sản khổng lồ và độc nhất vô nhị để tạo động lực mới cho công cuộc đổi mới mục vụ của giáo phận và Đền thờ Fátima,” Đức Hồng Y Marto nói trong một video sau khi việc bổ nhiệm được công bố.

“Ngài là một giám mục có 'mùi chiên', có mối quan hệ mật thiết và trìu mến với các tín hữu trung thành của Chúa, giáo dân, linh mục và các thành viên của đời sống thánh hiến, cởi mở cho các cuộc đối thoại đại kết và liên tôn cũng như với những người ngoại đạo”.

Đức Hồng Y Marto nói rằng ngài đã nộp đơn từ chức trước khi tròn 75 tuổi vào ngày 5 tháng 5 do “hạn chế về sức mạnh thể chất và tinh thần để có thể thực hiện đầy đủ chức vụ, theo nhu cầu mục vụ của giáo phận và Đền thờ Fatima.”

Vị Hồng Y người Bồ Đào Nha đã làm giám mục Fatima trong gần 16 năm. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lần đầu tiên phong ngài làm giám mục vào năm 2000 và Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm ngài lãnh đạo giáo phận Leiria-Fátima vào năm 2006. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phong ngài làm Hồng Y vào năm 2018.

Đức Hồng Y Marto sẽ giữ chức vụ Giám Quản Tông Tòa của giáo phận cho đến khi Đức Cha Ornelas nhận tòa trong thánh lễ tại nhà thờ chính tòa ở Leiria vào ngày 13 tháng Ba.

Đức Cha Ornelas, 68 tuổi, sinh ra trên đảo Madeira của Bồ Đào Nha, nằm cách Maroc 320 dặm về phía tây.

Ngài vào tiểu chủng viện của giáo phận năm 10 tuổi. Với ước mơ trở thành nhà truyền giáo, sau đó ngài vào trường Cao đẳng Truyền giáo của Dòng Linh mục Thánh Tâm Chúa Giêsu và tiếp tục học ở Bồ Đào Nha tại Học viện Truyền giáo ở Coimbra.

Vào đầu những năm 20 tuổi, Ornelas dành hai năm làm nhà truyền giáo cho Dòng Thánh Tâm ở Mozambique trước khi trở về Lisbon để hoàn thành bằng thần học tại Đại học Công Giáo Bồ Đào Nha.

Ornelas được tấn phong linh mục năm 1981 ở tuổi 27. Ngài có bằng tiến sĩ Thần học Kinh thánh tại Học viện Giáo hoàng về Kinh thánh ở Rôma.

Ngài giữ chức vụ bề trên Tổng quyền của Dòng Linh mục Thánh Tâm từ năm 2003 đến năm 2015, cho đến khi Đức Thánh Cha Phanxicô phong ngài làm giám mục Setúbal.

Hàng ngàn người Công Giáo trẻ tuổi dự kiến sẽ đến Bồ Đào Nha vào năm tới cho Ngày Giới trẻ Thế giới, sẽ được tổ chức tại Lisbon vào tháng 8 năm 2023.

Đức Hồng Y Marto nói rằng Ornelas, với tư cách là một linh mục truyền giáo và là một bề trên tổng quyền, mang theo “một tầm nhìn phong phú và kinh nghiệm phổ quát về Giáo Hội và thế giới trong sự đa dạng của năm châu lục”.

Đức Hồng Y nói: “Là giám mục của Setúbal và là chủ tịch hội đồng giám mục, ngài đã đưa ra chứng tá về kinh nghiệm mục vụ liên quan đến tính năng động truyền giáo của một Giáo Hội gần gũi và hướng ngoại.
Source:Catholic News Agency