Niềm tin
 Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14.
Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất hôm qua, hôm nay và ngày mai
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu trên khắp năm Châu đang hân hoan chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất trong Năm Phụng Vụ, được chuẩn bị bằng bốn Chúa Nhật Mùa Vọng. Tất cả chúng ta cùng hướng về Bê Lem, để cùng tôn kính và tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể: Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại làng Bêlem, nước Do Thái, cách đây 2000 năm, để cứu vớt nhân loại tội lỗi.
Trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia đã loan báo cho tất cả các dân tộc và mọi người “đang lần bước giữa tối tăm và sống trong vùng bóng tối” tin mừng lớn lao như sau: “ Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh“. (Isaia 9, 0-6)
Trong Bài Tin Mừng của Lễ Nửa Đêm Giáng Sinh năm phụng vụ C, thánh sử Luca đã ghi lại Biến cố trung tâm lịch sử nhân loại như sau: „Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ“ (Luca 2, 6-7).
Chúng ta để ý đến bối cảnh lịch sử và địa dư lúc Chúa Cứu Thế giáng sinh: bắt đầu bằng biến cố kiểm tra dân số đầu tiên theo lệnh của hoàng đế Au-gút-tô và đã được thực hiện dưới thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Vì thuộc dòng tộc vua Đa Vít, nguyên quán tại Bê Lem, nên hai vợ chồng son trẻ Giuse và Maria „lúc ấy đang có thai“ phải trở về làng quê để khai sổ nhân danh.
Bỗng chốc, muôn vàn sứ thần hiện ra báo tin vui cho „những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật“: „Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa“.
Sứ thần Chúa còn chỉ cho các người chăn chiên „dấu vết“ để nhận ra Đấng Cứu Thế: „Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ“. Và „muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng“: „Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương“.
Nếu không có lời báo tin của các sứ thần từ trời xuống, chắc hẳn các người chăn chiên thật thà chất phát và nghèo hèn này, những người đầu tiên được phúc đón nhận Tin Mừng đến thăm em bé sơ sinh và mừng với bố mẹ của em, sẽ không tài nào nhận ra em bé này chính là Đấng Cứu Tinh mà cha ông họ hằng mong đợi và đã được nhiều lần loan báo trong Cựu Ước qua các vị Ngôn Sứ.
Như vậy, một trong những ý nghĩa quan trọng và căn bản nhất của Lễ Giáng Sinh, chính là tuyên xưng và đón nhận Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã từng loan báo hàng mấy ngàn năm trước khi Ngài sinh ra: Ngài là Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, hôm qua, hôm nay và ngày mai. Một tín hữu mà không tin, không tuyên xưng và không sống niềm tin này thì chắc chắn không phải là một Kitô hữu đích thực.
Đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô và là Trung tâm điểm của Biểu Tượng Năm Toàn Xá 2000: Đức Giêsu Kitô, Ngài là „Ánh sáng“ thế gian. Chỉ có Người mới thật sự là Đấng Cứu Độ duy nhất của thế gian, hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi, vì nhờ Người, Thiên Chúa đến với con người để con người trở thành con Thiên Chúa.
Niềm tin này đã được định tín thành một tín điều, được mỗi tín hữu tuyên xưng mỗi lần đọc kinh Tin Kính và được nhắc đi nhắc lại trong các văn kiện của các Công Đồng Chung, của các vị giáo hoàng, và gần đây nhất là tông huấn „Hội Thánh tại Á Châu“ (Ecclesia in Asia) của Đức Gioan Phaolô II (ngày 6-11-1999) và tuyên ngôn „Chúa Giêsu“ (Dominus Jesus) của đức Hồng y Joseph Ratzinger (ngày 6-8-2000). Hai văn kiện sau cùng này nhấn mạnh chủ trương phải công bố Đức Giêsu là vị Cứu Tinh duy nhất và phổ quát của nhân loại.
Thử hỏi, khi Giáo Hội nói chung và mỗi Kitô hữu nói riêng, tuyên xưng, sống chết và làm chứng tá cho niềm tin vào “Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, hôm qua, hôm nay và ngày mai”, chúng ta có làm cớ vấp phạm cho anh chị em thuộc các tôn giáo khác, hay có cản trở cho cuộc đối thoại đại kết mà Giáo Hội theo đuổi từ bao năm qua?
Có hay không đều tùy thuộc vào cung cách tuyên xưng, tùy cách ăn nết ở, tùy vào cách rao giảng:
Nếu một người Kitô hữu mà tuyên xưng niềm tin một cách khiêm tốn, không vỗ ngực huênh hoang, nhưng luôn biết đối thoại trong tôn kính niềm tin của những người chung quanh.
Nếu lời tuyên xưng đi đôi với nếp sống, để những người khác không thể phát biểu: “Đi đạo, nhưng đừng tin người có đạo!”
Nếu lời tuyên xưng giúp canh tân nếp sống bản thân, đổi mới gia đình, dấn thân xây dựng công bình bác ái, đúng như thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho Titô, bài đọc 2 trong Lễ Nửa Đêm: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dậy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Titô 2, 11-12).
Đêm nay, khi quỳ bên máng cỏ, khi đi lễ Nửa Đêm mừng mầu nhiệm Thiên Chúa sinh xuống làm người, xin Đấng Cứu Thế hãy sinh vào lòng mỗi người tín hữu chúng con, để chúng con trở nên những Kitô hữu đích thực trong lời tuyên xưng bằng môi miệng cũng như trong cách ăn nết ở.
Đã đọc: 852 |