Thánh giá Chúa Kitô
 Chúa Kytô vác thập giá Roma và chết trên cây Thập tự đó. Hình phạt nầy không phải là sáng kiến của vua quan Roma. Có lẽ là hình phạt của Ba tư, đế quốc Hy lạp du nhập, rồi tới đến đế quốc Roma dùng, dành cho dân thuộc địa và dân nô lệ nổi loạn. Ta hãy hình dung xem : một người bị lột trần truồng, hai tay bị giang thẳng trói siết chặt vào thanh gỗ ngang, hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc, phơi ngoài trời cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để phổi thu nhận và tống không khí. Tử tội nào thay vì bị cột dây, bị đóng đinh nơi cổ tay, bàn chân, càng thê thảm bội phần vì đau đớn, nhức nhối, sức người rớn lên để thở mau kiệt quệ, dĩ nhiên là chóng chết hơn. Sử gia Joseph Flavius kể lại năm 70, thành Giêrusalem bị vây hãm, rồi bị phá bình địa, ba người bạn thân của ông mang tội xử thập giá lúc ông vắng mặt. Hay tin, chiều hôm đó, ông tới xin tướng Titus tha. Người ta tháo ba nạn nhân còn thoi thóp trên thập giá xuống và nhờ các y sĩ phục dược. Kết quả : hai người bị đóng đinh chết, người bị treo bằng dây thừng hồi sức được. Nạn nhân chịu cực hình như vậy, chết cũng không được đoái thương. Thây chết cứ để trên thập giá làm mồi cho chim muông ăn. Cũng có trường hợp quan cho phép gia đình tháo xác, đưa về chôn cất. Hình phạt thập giá đau khổ như vậy mà Chúa Kytô mong muốn chịu! Ngài phán : "Nầy chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và ký lục. Người ta sẽ kết án tử hình Ngài, sẽ nộp Ngài cho dân ngoại, để họ nhạo báng, đánh đòn, và treo Ngài lên thập giá, nhưng ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại" (Mt 20,18-19). Thánh Tông đồ Phêrô khiếp sợ, can gián Chúa, bị Chúa mắng là Satan (Mt 16,21). Chúa còn dạy mọi người : "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,24). Chúa còn tiên đoán số phận của người theo Chúa : "Đầy tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ bắt bớ Thầy, tất nhiên, họ cũng bắt bớ các con" (Gioan 15,20) và Chúa dạy phải cam lòng mà chịu : "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa. Ai muốn kiện đoạt áo trong, hãy trao áo ngoài luôn cho nó" (Mt 16,39-40). Như vậy, phải chăng Chúa Kytô xuống trần gian để chết đau khổ trên thập giá và Ngài muốn chúng ta cũng chịu như vậy ? Ngài bị treo trên thập giá, phải chăng ai theo Ngài cũng phải bắt chước Ngài leo lên thập giá ? Phải chăng Ngài đã chịu ngược đãi, bị tử hình thập giá, Ngài cũng muốn chúng ta theo Ngài thì phải cam chịu mọi đau khổ để theo gương Ngài ? Đạo lý của Ngài có trái ngược với khoa học kỹ thuật đang giúp mọi người sống hạnh phúc không ? Đạo lý của Ngài có đi ngược lại với trào lưu tư tưởng của nhân loại là giải thoát con người khỏi bất công, đau khổ, khỏi cái chết bất công không ? Thật là "kỳ quặc" nếu ta đồng hóa "thập giá Roma" với "Thánh giá Chúa Kytô". Cũng thật "kỳ quặc" khi ta nghe Chúa phán : "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa" (Mt 5,39) mà không biết phản ứng của Chúa khi thuộc hạ của ông Hanna tát Chúa : "Nếu tôi nói sai, anh hãy nói tôi nói sai ở điểm nào, nếu tôi nói đúng, sao anh lại đánh tôi" (Gioan 18,23). Trong vụ án giết Chúa Kytô, ai cũng biết nhóm Biệt phái, Ký lục và Tư tế đã phạm một tội tầy trời là giết Chúa Kytô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính Chúa Kytô đã bảo âm mưu giết Ngài là việc làm của ma quỷ (xem Gioan 8,40-41 và 44). Thánh Gioan không ngớt lời chỉ Satan gieo vào lòng Giuđa ý định nộp Chúa Kytô (xem Gioan 13,27,30) và Satan nhập vào Giuđa giúp ông thi hành (Gioan 13,27). Chúa Kytô phản đối vụ bắt bớ Ngài (Lc 22,52-53), phản đối hành động vũ phu của thuộc hạ của Hanna (Gioan 18,23) và tuyên bố trước quan Philatô tội đồng lõa của quan với nhóm nộp Ngài (Gioan 19,11). Một vụ án do Satan giật dây, Chúa Kytô tại sao không tránh đi, lại chỉ chống đối cách bất bạo động ? Câu trả lời thâu gọn trong động từ "vâng lời". Xuống thế làm người, giống người ta ngoại trừ tội lỗi, Chúa Kytô trở nên bạn hữu của tất cả mọi người để cứu độ mọi người. Xuất hiện trong một thế giới bị tội ác đánh độc, Ngôi Hai làm người phải đương đầu với tội ác. Tự căn bản, tội ác muốn loại trừ Ngôi Hai làm người khỏi trần gian giống như tội Ađam phạm để loại trừ Thiên Chúa. Vì thế, công cuộc nhập thể cứu độ của Ngôi Hai mặc lấy hình thức chiến đấu, đau đớn và đẫm máu mà phần kết thúc sẽ là phần tử nạn tàn nhẫn trên thập giá. Xét về mặt tự nhiên, Chúa Kytô thắng về tinh thần. Thí dụ : Trần Bình Trọng nói với quân Phương Bắc : Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc, ông bị giặc giết, ông thắng về ý chí, về tinh thần bất khuất. Nơi Chúa Kytô thì khác, vì Người là Thiên Chúa nên cái chết của Ngài toàn thắng về mọi mặt. Cái chết của Ngài có ý nghĩa : - Chứng minh Giáo lý của Ngài là của Chúa Cha trao cho Ngài, sai Ngài xuống rao giảng (Gioan 7,16). - Biểu lộ ra bên ngoài Ngài vâng lời tuyệt đối hoàn toàn lệnh của Chúa Cha sai Ngài giáng trần (Nếu sợ chết mà trốn đi thì chẳng khác "lính đào ngũ"). - Tố cáo tội ác của nhân loại : cho biết nhân loại phạm tội ác ghê gớm nhất (Ađam Avà xưng mình là Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa, bây giờ con cháu ông bà giết Đấng Thánh của Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa). - Biểu lộ tình thương của Chúa Cha thương nhân loại đến nỗi ban Con Một của mình cho thế gian. Nếu Chúa Kytô tránh né cuộc thương khó, tức là bỏ cuộc, chịu thua vì sợ chết thì Giáo lý của Ngài không thể chứng minh được là chân lý, là của Chúa Cha, tội ác của nhân loại không lấy gì chỉ cho thấy ghê gớm vô cùng, và đức vâng lời của Ngài không còn nữa và tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại không được chứng minh cụ thể, không có sức thuyết phục. Trong cuộc thương khó, chính Chúa Kytô còn phải tranh đấu với bản thân mình để hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, lãnh nhận Thánh Ý Chúa Cha trọn vẹn. Qua cái chết, Ngài đã cắt đứt mọi thứ ràng buộc, mọi thứ nương tựa để sinh sống, không chút bỉn rỉn thứ gì nên Ngài ra trống không (Philip 2,7) và Ngài đã vâng phục Thánh Ý Chúa Cha hoàn toàn, đã lãnh nhận Chúa Cha hoàn toàn, được tôn lên là Chúa (Kurios = Giavê, Philip 2,11). Ngài đã thực hiện trọn vẹn đức bác ái là mến Chúa và yêu người bằng đời sống rao giảng và đến mức hy sinh mạng sống mình. Rao giảng chân lý Nước Trời để quét đi bóng tối lầm lạc của Ađam Evà và của nhân loại xem mình là Thần linh có quyền ra luật "biết lành biết dữ", đưa nhân loại tới đúng địa vị và cao quý : là thụ tạo được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, địa vị làm con cái Thiên Chúa. Rao giảng Thánh giá của mình, Ngài rao giảng sự chiến thắng của Ngài bằng cái chết vâng phục để đánh gục sự kiêu căng của Ađam Evà và nhân loại đồng thời là sống lại lên trời vinh hiển của Ngài để kéo nhân loại về trời, kéo cả vũ trụ về với Thiên Chúa Cha. Trong mầu nhiệm Vượt Qua (chết và sống lại lên trời vinh hiển), Chúa Kytô vâng phục để đánh bại sự bất vâng phục, sự kiêu căng của loài người, Chúa Kytô chịu đau khổ để xóa hết mọi đau khổ của nhân loại, Chúa Kytô chịu chết để tiêu diệt cái chết cho nhân loại, Chúa Kytô sống lại lên trời vinh hiển để cứu độ nhân loại nghĩa là kéo mọi người về trời. Tội lỗi, sự chia rẽ, kỳ thị chủng tộc v.v, sự chết đã bị Thánh giá Chúa Kytô tiêu diệt và đem lại hạnh phúc đời này nhờ bác ái và hạnh phúc đời đời được trả lại cho nhân loại nhờ Thánh giá Chúa Kytô. Thánh giá Chúa Kytô đã thắng thập giá của Roma, của loài người trở thành dấu hiệu của thực tại chiến thắng do Chúa Kytô "lập công" cho nhân loại. Sức mạnh của Chúa Kytô có cờ hiệu là Thánh giá đang chinh phục thế giới và sẽ đạt được thành công hoàn toàn trong ngày Ngài quang lâm, khánh thành công trình cứu độ trần gian và vũ trụ. Thánh giá của bác ái nên tất cả mọi hoạt động bác ái, thăng tiến con người, cho con người bớt khổ, bớt hận thù, cho con người sống hạnh phúc đều góp phần vào Thánh giá Chúa Kytô. Trái lại, những ai gây đau khổ cho con người, những ai gây căm thù, những ai gây chết chóc cho con người là những kẻ đưa thập giá Roma đến cho con người. Thánh giá Chúa Kytô còn là dấu hiệu của thời gian cánh chung, thời gian cận Quang lâm tức là thời gian chúng ta đang sống, lời xét xử của Chúa Kytô đã vang lên : "Hỡi những kẻ Cha thầy đã chúc phúc, hãy vào Nước Trời đã dọn sẵn cho anh chị em từ tạo thiên lập địa vì từ xưa Thầy đói anh chị em đã cho ăn, Thầy khát, anh chị em đã cho uống, Thầy là khách lạ, anh chị em đã tiếp rước, Thầy trần truồng, anh chị em đã cho mặc, Thầy đau yếu, anh chị em đã đến chăm nom, Thầy ngồi tù, anh chị em đã đến viếng thăm" (Mt 25,34-36) nghĩa là "anh chị em đã làm những điều bác ái nầy cho những người khốn khổ là anh chị em đã làm cho chính Thầy" (Mt 25,40). Trong Thánh giá Chúa Kytô, đau khổ và cái chết là do thập giá Roma gây nên, vì thế ta nên nhớ rằng đau khổ và cái chết của Chúa Kytô không phải là lễ vật mà Chúa Kytô dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha trong công trình sáng tạo đã không tạo ra đau khổ và sự chết nơi loài người. Lễ vật Chúa Kytô hiến dâng Chúa Cha trên thập giá chính là tâm tình hiến dâng và vâng phục Chúa Cha hợp với yêu mến loài người đang bị hư vong. Trong mảnh đất đau khổ và chết chóc do Chúa Kytô chịu mọc lên bông hoa cực đẹp là tâm tình hiến dâng, và vâng phục Chúa Cha. Kẻ gây ra đau khổ và cái chết cho Chúa Kytô đã phạm một tội ác lớn hết sức : giết Con Thiên Chúa. Trong cái chết biểu lộ sự hy sinh cao cả và tột đỉnh, giá trị hy sinh chịu chết thể hiện con người sống bác ái. Cái chết đền tội cho cả nhân loại, cái chết để cho nhân loại khỏi chết. Đến lượt mọi Kytô hữu, trong bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) đã được cùng chết với Chúa Kitô (bỏ con người tội lỗi), đã cùng được an táng với Chúa Kytô và cùng được sống lại với Chúa Kytô (Colossê 3,3 ; Roma 6,4). Như vậy, ta được sự sống của Thiên Chúa trong ta khiến ta là con Thiên Chúa Cha, là con Thiên Chúa Cha trong người con duy nhất là Chúa Kytô (filius in Filio) tức là em của Chúa Kytô, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Cái chết đến với ta chỉ là phương tiện bỏ đi những chướng ngại của con người trần gian để sự sống của Chúa trở thành viên mãn, ta hưởng Nhan Thánh Chúa. Còn đau khổ hiện tại ta đang phải vác ? Chúng ta đã biết đau khổ, cái chết tự nó không có giá trị, và loài người đang tìm cách đẩy lui nó, Thánh giá Chúa Kytô tiêu diệt nó. Tuy nhiên phải phân biệt : - Đau khổ như Giuđa sau khi đã bán Chúa do hối hận quá sức đưa tới tự vận, thứ đau khổ nầy, xét về mặt tự nhiên, có một cái gì đáng nói, đáng suy nghĩ và cảm phục một phần nào, nhưng xét về mặt siêu nhiên, đau khổ và cái chết của Giuđa không thể xem như một lễ vật đền tội được. - Đau khổ của Thánh Phaolô : một cái dằm đâm vào thân Ngài, một thần sứ satan (2 Cor 12,7), thánh nhân đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi khổ nầy (2 Corintô 12,7-8), nhưng Chúa lại cho thánh nhân biết : "Ơn Chúa bảo trợ cho thánh nhân là đủ rồi, và cũng nhờ đó, sức mạnh của ơn Chúa rõ ràng nơi hèn yếu, bất lực" (xem 2 Cor 12,19). Trên bước đường truyền giáo, thánh nhân đã chịu rất nhiều đau khổ : bị người Do Thái đánh đòn 5 lần, bị đắm tàu 3 lần, bị ném đá một lần… và Ngài đã nói thực đang mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa Kytô (xem 2 Cor 4,10) để bù đắp đầy đủ những gì còn thiếu sót nơi cuộc tử nạn của Chúa Kytô (xem Colossê 1,24). Những đau khổ nầy tự nó không phải là lễ vật, nhưng từ đó nở bông hoa bác ái : yêu mến Chúa Kytô cao độ và hy sinh vì ơn Chúa đã gọi Ngài đi truyền giáo… là lễ vật hợp với lễ vật của Chúa Kytô. Sách Công vụ Tông đồ ghi nhận tâm trạng của thánh Phêrô và thánh Gioan sau khi ra khỏi Công nghị Do thái : "Các ngài hân hoan mà ra khỏi công nghị vì đã thấy mình chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kytô" (CvTđ 5,41). Vậy, đau khổ có phúc khi kết hiệp với đau khổ của Chúa Kytô để đạt tới cứu cánh là thực thi đức bác ái, là cứu độ, là đem lại hạnh phúc. Ở đời, người ta đánh giá rất cao loại đau khổ đạt tới đức bác ái : người mẹ chịu đau khổ vì con để cứu con khỏi đường tội lỗi (thánh Monica v.v) bà mẹ chịu khổ sở giúp con cai nghiện ma túy v.v. Đau khổ loại nầy không phải là thứ cam chịu, nhưng là một cuộc chiến đấu. Người Kytô hữu chịu đau khổ vì phải giữ Đạo v.v là một cuộc chiến đấu với Chúa Kytô, kết hiệp với Chúa Kytô phát triển và làm lan tỏa đức bác ái thánh thiện. Còn những đau khổ do : - Không giữ gìn sức khỏe nên mắc nhiều bệnh tật. - Không chịu học hành nên phải sống trong cảnh ngu dốt. - Lười biếng nên phải lâm cảnh nghèo đói v.v Nếu nói đó là Thánh giá Chúa Kytô gửi đến thì chẳng khác gì "lăng nhục" Thánh giá Chúa Kytô.
Đã đọc: 1317 |