Vương Quyền Của Thiên Chúa là tuyệt đối
 Vào thời đại chúng ta ngày nay, người ta tán dương sự công bình, nên ý niệm về vương quyền có vẻ xa lạ và không được ưa thích. Nó làm người ta nghĩ ngay đến những hệ thống độc tài, những thái độ áp đặt trên người khác, hoàn toàn bất công vì lạm dụng quyền lực, về một cái gì đó gây đau khổ cho con người. Tuy nhiên, nó lại là sự kiện thực tế mà mọi hệ thống hợp pháp ( như gia đình, xã hội, tôn giáo hoặc chính trị) trong đó một phẩm trật, một quyền bính hay một chủ quyền cần phải có và tôn trọng. Theo tâm thức chung, khi ta nói vương quyền, ta nghĩ ngay đến nhà vua, là hiện thân vương quyền của mình trong lịch sử. Ngày nay, người ta nói đến chủ quyền quốc gia để chỉ sự độc lập của một nước được nhìn nhận trong mối bang giao quốc tế. Khi ta nói đến vương quyền của Thiên Chúa bằng ngôn ngữ tôn giáo và tâm linh, ta muốn nhấn mạnh điểm gì? Trước tiên, theo các bài đọc, ta muốn nói đến chủ quyền của Thiên Chúa trên toàn thể tạo thành, do tay Ngài tạo dựng, nhờ lòng yêu thương bao la của Ngài. Thứ đến, chúng ta muốn đề cập đến việc Thiên Chúa điều khiển lịch sử, một lịch sử trong đó những biến cố của lịch sử trần tục đan xen và song hành với những biến cố của lịch sử cứu độ. Sau cùng, chúng ta muốn nói đến Thiên Chúa làm chủ trên sự chết và những gì bên kia cái chết, cõi vĩnh hằng. Không có gì sánh bằng quyền thống trị của Thiên Chúa, bởi vì duy chỉ mình Thiên Chúa tạo dựng và có quyền năng trên mọi tạo thành. Quyền thống trị của Ngài không biên giới, vì Ngài vượt trên mọi dân mọi thời để thực hiện mục đích cao trọng nhất là: ban ân phúc cho nhân loại và ơn cứu độ cho mọi người nam nữ. Quyền thống trị của Ngài không có "đối thủ", đặc biệt vì Thiên Chúa thực thi vương quyền của Ngài bằng một đường lối hoàn toàn tích cực. Ngài không phải là người đi chinh phục nhưng là Đấng giải phóng. Ngài không áp đặt uy quyền bằng sức mạnh, nhưng chứng tỏ tình yêu của Ngài trong tư cách một người cha. Ngài không để cho người ta mua chuộc; nhưng Ngài thực thi công lý vào lúc thích hợp. Trong đêm canh thức Phục Sinh, khi nhìn lại lịch sử cứu độ mà tuyệt đỉnh là sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, ta nhận ra được vương quyền của một Thiên Chúa nhân hậu và yêu thương nhân loại. Nếu Đức Kitô không sống lại... Thiết tưởng rằng đây là một ý tưởng mang lại lợi ích cho cuộc sống niềm tin của người kitô hữu. Thánh Phaolô cũng đã tự đặt mình trong tình huống như thế. Ngài đã nói gì? 1) Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của ta ra vô ích. Đúng vậy, vì tâm điểm của đức tin là con người và cuộc sống của Đức Giêsu Nagiarét. Nếu Ngài là một con người chết trong dòng lịch sử, Ngài không còn phải là Thiên Chúa cũng chẳng phải là Đấng Hằng Sống nữa, và như thế niềm tin của chúng ta rỗng không. 2) Nếu Đức Kitô không sống lại, chúng ta là những nhân chứng giả của Thiên Chúa. Quả thật, hãy nghe thánh Phaolô và các tông đồ rao giảng thế nào? Chính Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô sống lại và đặt Ngài làm Chúa cả kẻ sống và kẻ chết. 3) Nếu Đức Kitô không sống lại, tội anh em không được tha. Nói cách khác, bí tích thanh tẩy chỉ là một nghi thức rỗng không và vô hiệu. Cùng chết với Đức Kitô thì cùng được sống lại với Ngài. Nếu Đức Kitô không sống lại, tội lỗi và sự dữ vẫn có tiếng nói cuối cùng (tồn tại). 4) Nếu Đức Kitô không sống lại, chúng ta là những người đáng thương nhất. Đúng vậy, vì niềm hy vọng của ta tan vỡ một cách bi thảm. Sau cùng, như thánh Phaolô, ta đi đến kết luận thật đẹp là, Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. (1 Cr 15,12-20). GỢI Ý MỤC VỤ Hy vọng không tàn phai Như là con người thực tiễn và gắn liền với hiện tại, chúng ta không thể không hướng về phía trước hay không mở rộng tâm hồn để hy vọng dù đó là hy vọng thuần tuý trần thế hay hướng đến vĩnh cửu. Dù hy vọng có thể bị xem là yếu đuối, hy vọng định rõ cho thấy phần sâu thẳm nhất của hữu thể. Kitô giáo tạo ra sức mạnh cho niềm hy vọng của con người để họ tiếp tục hiện hữu cho đến giây phút cuối cùng và mở cho chúng ta hy vọng ở một mức độ cao hơn. Hy vọng của chúng ta không bị phai nhạt trong quyền quan phòng tối thượng của Thiên Chúa trên công cuộc sáng tạo và lịch sử. Đối với chúng ta, chủ quyền quan phòng Thiên Chúa có thể là mầu nhiệm, làm chúng ta lúng túng và không thể tiên đoán được, nhưng chúng ta tin rằng sự quan phòng này có thật và đặt tin tưởng vào sự quan phòng vì nó tạo sự an toàn cho công việc của ta và với thời gian trôi qua chúng ta thoáng nhận ra điều này. Hy vọng của chúng ta không tàn phai nơi Đức Kitô, Đấng là Ánh sáng thế gian. Hy vọng này giống như ánh sáng chiếu soi với một sự rạng ngời mới mẻ như trong phần đầu của Đêm Vọng Phục Sinh. Có lẽ chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng bóng đêm đang có mặt dày đặc ở nhiều nơi. Nhưng hy vọng nơi Đức Kitô là Ánh Sáng phải tiếp tục cháy sáng lên. Ánh sáng đó trước tiên và trên hết xua tan đêm tối bên trong lương tâm con người rồi từ nội tâm ánh sáng này làm tiêu tan sự đen tối trong hành vi con người. Hy vọng của chúng ta không phai mờ nơi tính cách thanh tẩy và biến đổi của bí tích Rửa tội. Nếu niềm hy vọng của chúng ta vững bền, tại sao lại rửa tội trẻ em ngay từ khi mới sinh ra? Hy vọng nơi tính hiệu quả của bí tích Rửa tội đòi buộc người Kitô hữu sống trưởng thành và liên kết với bí tích này, tẩy sạch mọi tội lỗi trong thái độ biến đổi thiêng liêng và luân lý dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chứng nhân Phục sinh Bài Tin Mừng kể về các phụ nữ và các Tông đồ là những chứng nhân của sự Phục sinh. Chứng tá phục sinh một cách công khai và chính thức tuỳ thuộc vào hàng giáo sĩ trong Giáo Hội, nhưng vẫn có thể nói đến chứng tá riêng tư hay tại gia mà mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi. Tất cả Giám mục, linh mục và phó tế phải là chứng nhân của việc Phục sinh qua việc loan báo mầu nhiệm bao la này, loan báo nhân danh Đức Kitô. Để công cuộc loan báo này có tính thuyết phục, các chứng nhân phải thể hiện sự khả tín của biến cố này nơi cuộc sống của họ, bởi vì khi họ đã cảm nghiệm và sống thì người khác mới nhận ra sự sống lại nơi các chứng nhân. Cha mẹ là những chứng nhân đặc biệt của sự Phục sinh và của toàn bộ niềm tin Kitô giáo. Khi cha mẹ tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, sống với nét mặt và công việc của những người được ơn sống lại, cha mẹ sẽ làm cho con cái tin tưởng vào mầu nhiệm này. Giáo lý viên cũng là những chứng nhân quan trọng. Họ phải kết hợp cuộc sống của một nhà giáo và của một chứng nhân. Mọi giáo lý viên đã sống được như vậy chưa? Giáo phận phải rất quan tâm trong việc chọn lựa và huấn luyện các giáo lý viên và điều này sẽ giúp ích cho toàn thể Giáo hội.
Đã đọc: 1582 |