Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo những công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nghiệm như thế giống như mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cọ. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói phải được no thỏa mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nghiệm ấy luôn làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. “Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng ta”.
Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Chúa Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có rất nhiều việc phải làm.
Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc làm điều gì không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt bên ngoài.
Phần đông con người có xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện, người ta có thể dễ dàng quy ngã, hướng ngã, thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.
Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều ở rừng Maine. Ông ta làm gì suốt hai năm ấy ? Ông trồng một vườn rau, đọc sách và quan sát thiên nhiên. Nhưng một đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói : Thỉnh thảong vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng cho đến trưa, mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên tĩnh, trong khi bầy chim ca hát chung quanh tôi.
Ông đã thu hoạch được gì từ điều đó ? ông nói :
“Trong những mùa ấy, tôi lớn lên như cây ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian lấy mất khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù như những con kiến chưa đủ, bạn cần cù về điều gì ? Đừng sợ cuộc đời bạn kết thúc, đúng hơn phải sợ cuộc đời bạn chưa bao giờ bắt đầu.
Một số người cho Thoreau là một kẻ mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn, cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Macta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn, nhưng đó lại là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn lao.