Chúa Kitô Vua
 Họa sĩ Louis David đã vẽ một bức tranh thời danh về cái chết của Socrate: Một con người tráng kiện, một tay chỉ lên trời, một tay giơ ra cầm chén thuốc độc, mặt quay nhìn các môn đệ với ánh mắt sáng ngời. Ông mặc chiếc áo vải thô, sống rất tầm thường, khác với bọn ngụy biện ăn mặc sang trọng để lôi cuốn dân thủ đô Athen. Ông cũng khác với các hiền triết xưa, ông không có chức vụ gì quan trọng. Ông bị Quốc hội Athen Hy Lạp văn minh nhất thời đó kết án phải uống thuốc độc chết vì tội đầu độc lớp thanh niên và tôn sùng vị thần khác với các thần của thành phố (năm 470-399 trước công nguyên).
Suốt đời ông rảo khắp đất nước rao giảng chân lý với đôi chân trần chai sạn. Mục đích của ông giúp các thanh niên thức tỉnh, tự truy tìm chân lý ở nội tâm mình: “Anh hãy tự biết mình” (connais-toi, toi même) bằng phương pháp đối thoại gợi ý (Maieutikê). Tự biết mình để giải thoát mình khỏi những thành kiến sai lầm, những độc đoán ngụy biện, những chính sách chính trị. Trước khi chết ông đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sự trong sáng nội tâm - “Mon Dieu, donne-moi la purité intérieure” Triết gia Hégel đã gọi ông là “anh hùng của nhân loại” (héros de lhunanité). Giáo sư Didier Julia gọi ông là điển hình của một tông đồ đem lại tự do chân chính. Socrate đã làm chấn động tận gốc những tập tục cổ hủ và chuẩn bị lương tri con người đón nhận một sứ điệp khác: Sứ điệp Kitô giáo (Dictionnaire de la philosophie: Larousse). Platon, môn đệ của ông đã chứng kiến cái chết của Socrate, đã tôn thầy mình là Đấng sáng lập nền trí thức về tình yêu, về Thiên Chúa, về lời mời gọi đi tới huyền nhiệm. Socrate là “vạn thế sư phụ của Tây phương” cũng như Khổng Tử là “vạn thế sư biểu của Đông phương”.
Còn, Đức Giêsu là “vạn thế vương đế của thế giới”. Cũng như Socrate, Đức Giêsu là thường dân áo vải, đã rảo khắp đất nước và các lân bang để rao giảng chân lý: Chân lý về tình yêu muôn thuở, về mầu nhiệm nước trời, về Thiên Chúa là Cha nhân lành hằng ban sự sống vinh quang để giải phóng con người khỏi nô lệ cổ truyền bất nhân, khỏi gông cùm sự dữ. Những chân lý đó đánh bật tận gốc những tham vọng ích kỷ, hẹp hòi, đê tiện của các tầng lớp xã hội bất công. Những chân lý đó giống như luật lệ chống tham nhũng, chống mafia. Những ai can đảm thực thi những luật lệ chân chính đó đều bị bọn tham ô và mafia diệt trừ.
Đức Giêsu là Vua công chính, lại bị bọn bất chính kết án tử hình. Bọn bất chính đó là các thủ lãnh trong hàng ngũ biệt phái, Sa đốc, thượng tế, tư tế và quyền đời như Hêrôđê và Philatô. Họ đang đắc thắng nhạo báng Đức Giêsu rằng: “Hắn cứu được thiên hạ, có giỏi thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, được Thiên Chúa tuyển chọn”. Họ đã biết rõ Người cứu thiên hạ, đã chữa bao nhiêu bệnh nhân, cho những kẻ chết sống lại, trừ khử quỷ ám. Nhưng họ kiêu ngạo chụp mũ Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, kết án Người là kẻ tội lỗi vì cứu chữa bệnh nhân trong ngày nghỉ Sabát, ghép Người vào hàng ô uế tội lỗi và bọn thâu thuế. Họ cho mình trong sạch, không đi lại với dân ngoại, không động đến kẻ phong cùi, kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết nằm giữa đường. Và khi họ đã đóng đanh Người, họ còn bất nhân, tàn nhẫn chế nhạo và thách thức Người. Họ như thằng quỷ cám dỗ Người khi Người ăn chay 40 đêm ngày: “Nó đến nói với Người: Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh”. Họ cũng giống những người Nazaret nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói Ông đã làm ở Capharnaum, Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê Ông xem nào!” (Lc. 4, 3-23). Trước những lời mỉa mai đó, Đức Giêsu đã lặng thinh. Người không tự bào chữa, Người để họ tố cáo Người như một kẻ bất lực, bất tài. Họ cứ tưởng rằng Đấng Kitô là Vua Do Thái, sẽ giải phóng dân tộc, sẽ là anh hùng vĩ đại bách chiến bách thắng như Vua David, khôn ngoan bắt cả thế gian phải thần phục mình như Salômôn.
Noi gương các sếp thủ lãnh nhạo báng, bọn lính cũng a dua chế diễu: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì tự cứu mình đi”, chua chát thay! Chúng vừa nói móc vừa đóng bảng án phía trên đầu Người để kết tội: “Người này là Vua Dân Do Thái”. Đó là cách phong vương của quân dữ.
Nghi thức phong vương thường lệ là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài I). Còn nghi lễ phong vương của Thiên Chúa thì khác: Thiên Chúa sai ngôn sứ đến xức dầu cho người Chúa chọn, như Thiên Chúa đã bảo Samuel đến xức dầu cho David. Thần khí Thiên Chúa đã đáp xuống David làm cho con người bé nhỏ trở nên phi thường. Nhờ đó David đã tung ná bắn đá vào trán Gôliat té nhào chết. Gôliat là điển hình sức mạnh vũ bão của loài người, còn David là đứa bé hèn mọn đã đánh Gôliat với danh Thiên Chúa (1Sm. 16, 11-13; 17, 4-50). Việc tấn phong Đức Giêsu làm Vua, không phải do con người mà do chính Thiên Chúa dùng Thánh Thần xức dầu phong vương cho Đức Giêsu khi Người chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con của Cha …” (Lc. 3, 22). Với sức mạnh Thánh Thần, Đức Giêsu đã thực hiện sứ mệnh là Vua Cứu thế đến tột đỉnh trên ngai vàng thập giá, đầu đội triều thiên gai. Đó là những dụng cụ để chiến thắng sức mạnh của các thủ lãnh và quân lính thế gian, chiến thắng đau khổ và thần chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đứng kề Thánh giá với Đức Mẹ, Thánh Gioan và các Thánh nữ, biết nhìn vào Trái tim Chúa đang chảy máu và nước ra như viên sĩ quan, để cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này thật là công chính”, và biết kêu van: “Lạy Ngài khi Ngài vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Hay ít nhất, cho con biết đấm ngực ăn năn như dân chúng để thú tội và mến yêu Ngài là Vua Tình thương tha thứ, Vua Hy sinh chịu chết cứu độ con. Amen.
Đã đọc: 299 |