 Tôma Nguyễn Văn ÐỆ, sinh năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Ðịnh, Giáo dân, Dòng Ba Ðaminh, xử giảo ngày 19-12-1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 19-12.
Thánh Tôma Nguyễn Văn Ðệ sinh năm 1810 tại làng Bộ Tràng thuộc tỉnh Thái Bình. Sau ngài theo cha mẹ ra họ Kẻ Mốt thuộc xã Ðức Trai để làm ăn. Ngài sống bằng nghề thợ may, và cũng thường may áo quần cho những người trong nhà xứ. Ngày 28-6-1838, theo lời tố cáo có cụ đạo trong họ Kẻ Mốt, quân lính vây bắt được Cha Tự. Quan phủ lại truyền dân chúng phải tụ họp để điểm mục. Sau khi tra khảo và đe dọa, nhiều người Công Giáo đã bỏ đạo. Ông Ðệ sợ không biết mình có vững lòng tuyên xưng đức tin không nên không chịu ra đình làng, ông trốn ở trong nhà. Tuy nhiên khi quân lính vây và lục soát từng nhà, chúng bắt được ông.
Trước khi bị bắt, ông Ðệ biết mình không thể trốn tránh được nữa nên gọi vợ con lại khuyên bảo. Sau đây là đoạn ghi lại những lời ông khuyên vợ: "Bà nhận lấy các con và về nhà cha mẹ, chịu khó làm ăn mà coi sóc các con, để chúng nó biết thờ phượng kính mến Ðức Chúa Trời và giữ đạo cho nên. Trong phen này tôi vào trận thì trông ơn Ðức Chúa Trời thương, mà tôi nhất định theo chân cụ Tự cho đến chết, chẳng có lẽ nào cho tôi về nữa. Nếu bà có thương thì cầu xin Ðức Chúa Trời ban sức cho tôi được chịu khó theo cụ mà thôi".
Khuyên vợ con xong, ông Ðệ để cho quân lính bắt mình. Lúc đó ông Ðệ quãng 28 tuổi. Ông có ba người con.
Tại đình làng, gọi là Làng Tài, nhiều giáo dân đã bỏ đạo, nhưng ông và bốn anh em khác cũng như Cha Tự không chịu nên bị tra khảo và đánh đập cho đến khi bỏ đạo. Ông Ðệ nhất định không chịu quá khóa còn thưa với quan: "Bẩm quan lớn, tôi không thể bỏ Chúa tôi được".
Rồi ông ôm ảnh chuộc tội thưa với Chúa rằng: "Lạy Chúa tôi, tôi không dám bước qua mặt Chúa tôi, tôi xin theo cụ tôi, mà cụ tôi chịu sự khó gì, thì tôi cũng xin chịu sự khó ấy".
Quan tức giận truyền trói ngài và đóng gông để giải về tỉnh. Ngày 1-7, ông và các bạn bị dẫn về tỉnh Bắc Ninh.
Trong thời gian ở lao tù, mỗi khi quan truyền lệnh tra khảo và bắt bỏ đạo ông đều hiên ngang tuyên xưng đạo Chúa như các ông Mậu, Úy, Mới và Vinh. Dù quan dùng cực hình tra tấn hay dùng những lời khuyên dụ ông bỏ đạo vẫn không thể lay chuyển được lòng trung kiên với Chúa của ông. Tuy nhiên những lời than khóc và thương tiếc của người vợ hiền và các con dại cũng làm cho ngài phân vân khó xử. Nhưng Thiên Chúa vẫn ban đủ ơn cho ngài để ngài có đủ can đảm khuyên bảo vợ con vâng theo thánh ý Chúa và để ngài được chịu chết vì Chúa: "Bà về nuôi lấy con cái cho tôi, tôi thì không về nữa, tôi chỉ trông mong chịu tử vì đạo mà thôi, và tôi đã dâng bà và các con cho Ðức Chúa Trời rồi".
Thật là một cử chỉ anh hùng!
Một câu chuyện khác đặc biệt của ngài là khi quan hỏi Chúa là ai, ông Ðệ đã xưng ra: "Chúa là cội rễ mọi sự, là Chúa thật dựng nên trời đất".
- "Chúa mày là mảnh gỗ ư?" Vừa nói quan vừa đưa cây thập giá cho ngài xem.
- "Nào quan lớn có biết đâu là Chúa thật. Xin quan lớn cho tôi được hỏi một lời. Quan lớn có biết nguồn gốc của Phật không? Nếu quan lớn chém đầu tôi, thì tôi sẽ về cùng Chúa tôi trên trời, hưởng phúc vui vẻ vô cùng".
Bấy giờ quan giận quá truyền lính lấy roi và vồ nọc đánh đập hành hạ ông. Nhưng khi đã sắp sẵn roi rồi quan lại truyền thôi không đánh nữa kẻo bẩn roi, rồi truyền làm án để vua xử cho xong.
Trong các thánh bị bắt cùng lượt với ông, thì ông Ðệ nổi tiếng là đối đáp văn vẻ nhất. Khi cần đối đáp chữ nho thì ngài đối đáp chữ nho nên quan cảm phục khen ngợi ngài hay chữ.
Mỗi khi bị bắt bước qua tượng ảnh ông lại hôn kính, hoặc ẵm lấy tượng rồi đọc kinh Tin Kính. Trong ngục, ông đồng một lòng với các bạn xin gia nhập Dòng Ba Ða Minh.
Ngày 24-11, ông và các bạn bị nghị án xử giảo sau khi quan đã cố gắng hết sức khuyên dụ các ông mà các ông vẫn không nghẹ Dù lần này để cứu các ông, quan chỉ ra lệnh các ông đi chung quanh thánh giá, các ông vẫn không chịu.
Ngày 19-12-1839, chiếu chỉ vua tới truyền xử giảo ông và bốn vị. Các ông từ chối lời khuyên cuối cùng của quan lớn, và xin quan cứ theo chiếu chỉ của vua mà thi hành.
Ngày hành hình đến, quan lớn và quân lính điệu các ngài tới một nơi ngoài thành Cổ Mễ. Sau khi các ông qùy đọc kinh, quân lính buộc dây vào cổ và xử giảo các ông. Sau đó quân lính đốt chân các ông để biết chắc các ông đã chết, và để làm hài lòng các quan chúng còn đánh đập trên xác các ngài và chửi rủa thậm tệ rồi mới bỏ về. Bổn đạo chạy ùa vào để lấy các di tích của các ngài.
Một người bổn đạo chạy vào vác xác Thánh Ðệ và đưa về Kẻ Mốt. Ông này kể lại câu chuyện xảy ra khi ông vác xác thánh như sau: "Tôi vác xác thánh vào lúc nửa đêm. Bất chợt xác ngài tỏa ra ánh sáng, chỉ đường cho tôi phải đi về đâu. Khi tới bờ sông, tôi rất lo lắng vì tôi biết chắc chắn không có đò vào giờ đó thì làm sao tôi qua được bờ bên kia? Nhưng trái với ý nghĩ của tôi, lúc đó nước rút xuống rất thấp đến nỗi tôi có thể lội qua bờ bên kia rất dễ dàng. Hơn nữa khi tôi đến làng Kẻ Mốt, tôi thấy cổng làng đã mở, dù cổng làng luôn đóng chặt vào lúc ban đêm. Tôi vác xác thánh vào nhà thờ và đặt ngài trên bàn thờ. Lúc đó không có ánh sáng trong nhà thờ, nhưng có ánh sáng lạ lùng phát ra từ thân thể của ngài".
Xác ngài được táng tại họ Phong Cốc thuộc địa phận Bắc. Mãi đến ngày 11-3-1877, xác ngài được cải táng về nhà thờ họ Phương Lê.
Đã đọc: 518 |