 Các Giáo phụ, nhất là thánh Augustinô, thánh Fulgenciô và thánh Đamianô đã hết sức ca ngợi thánh Têphanô, một phó tế mà lại là phó tế thứ nhất tử đạo. Chính tên thánh nhân bằng tiếng Hy Lạp đã có nghĩa là được "đội triều thiên" rồi, vì thế có người đã nói thánh nhân đã được gọi chịu tử đạo ngay từ lúc lọt lòng mẹ.
Sống vào thế kỷ thứ nhất, nên đời sống của thánh nhân không được mấy người ghi chép, nhất là về tuổi thơ ấu của thánh nhân lại càng hiếm tài liệu. Có lẽ thánh Têphanô đã được sinh ra trong một gia đình Do thái ở nước Hy lạp cổ. Lúc thiếu niên, Têphanô đã được thụ giáo với danh sư Gamaliên ở Giêrusalem. Dưới quyền chỉ huy dạy bảo của thầy, Têphanô đã vùi đầu vào Kinh thánh để học hỏi truy tầm và nghiên cứu. Khi họ ở Giêrusalem, có lẽ thánh Têphanô có quen biết thánh Phaolô lúc ấy còn gọi là Saulô, người sẽ tham dự vào cuộc ném đá Têphanô sau này, nhưng rồi lại trở thành vị tông đồ của dân ngoại. Sau ít lâu chính Têphanô cũng theo làm môn đệ Chúa Giêsu và khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Têphanô cũng có mặt trong phòng các tông đồ.
Hồi ấy số môn đệ ở Giêrusalem càng ngày càng tăng, những người Do thái ở ngoài đất Palestina và thường được gọi là những người Hy Lạp hóa, họ hoàn toàn thực hành luật Maisen, nói tiếng Hy lạp và đọc Kinh thánh bằng Hy lạp trong nhà nguyện. Những người này thường lẩm bẩm kêu trách những người Do thái chính thức vì những bà góa bụa bị khinh rẻ và không được săn sóc đến trong các cuộc phát bánh hằng ngày ở hội đường. Vì thế mười hai vị tông đồ liền triệu tập các môn đệ lại và nói: "Nếu chúng tôi phải bỏ việc giảng thuyết lời Thiên Chúa để lo việc ở bàn ăn thì không nên chút nào. Vậy anh em hãy tìm lấy bảy người trong số anh em đây có danh tiếng hẳn hoi, đầy Chúa Thánh Linh và nhiều khôn ngoan để chúng tôi đặt đứng đầu làm việc đó" (Cv 6, 2). Đề nghị ấy được hội đồng nhiệt liệt hưởng ứng, sau đó Têphanô, đã được chọn làm phó tế cùng với sáu người khác. Thế là từ đây Têphanô, sau khi được giới thiệu với các tông đồ, đã trở nên một chứng nhân anh hùng gan dạ cho Tin mừng của Chúa.
Sau khi được tấn phong, Têphanô dư đầy ơn Chúa Thánh Thần cùng với những đức tính cao quí tột bậc. Ngài bắt đầu tra tay vào nhiệm vụ rao giảng. Ngài cộng tác rất đắc lực với các tông đồ trong việc truyền giáo, khiến cho nhiều bậc vị vọng trong dân Do thái xin tòng giáo. Vì thế bọn Pharisiêu kiêu hãnh ghen tị, căm hờn Têphanô, họ quyết tâm dùng mọi thủ đoạn, mọi mánh lới để vu khống và tố cáo ông là người khinh thị lề luật Maisen và xâm phạm đền thánh. Chiếu luật Maisen ai phạm tội đó đều đáng xử tử. Căn cứ vào những lời vu khống gian ngoa đó, bọn họ ra lệnh bắt Têphanô điệu ra xử tại pháp đình Do thái. Trước pháp đình, Caipha con người gian ác, quỉ quyệt, đã lên án xử Chúa Kitô, nay lại dựa vào những lời điêu ngoa của bọn Pharisiêu để cho lệnh hành hạ Têphanô. Nhưng trước khi kết án, Caipha cho phép Têphanô bào chữa. Và đây là dịp để cho Têphanô vạch rõ sự vong ân bội nghĩa của pháp đình Do thái và đồng thời nhắc lại cho họ biết lòng nhân từ của Chúa đối với dân tộc kể từ tổ phụ Abraham qua các tổ phụ khác như Isaac, Giacóp. Sau đó Têphanô đã tự bào chữa trước những lời vu cáo bất công do bọn giả hình Pharisiêu gây ra.
Ngài đã vịn ra đủ lý chứng trong Kinh thánh để chứng minh rằng Thiên Chúa không thể nào chỉ ở trong đền thờ do tay loài người tạo dựng, cả vũ trụ là toà Ngài ngự, Ngài không thể tự giam mình trong bốn bức tường kín của đền thờ. Nghe Têphanô biện thuyết, toàn thể phẫn nộ lên đến cực điểm vì họ hiểu Têphanô có ý phản đối điều mà xưa nay họ vẫn tin tưởng mạnh mẽ. Đứng trước lũ người không biết phục thiện, Têphanô nhớ lời Chúa đã nói: "Điều gì Thầy dạy các con trong bóng tối, hãy rao giảng ra ánh sáng. Điều gì các con nghe rỉ qua lỗ tai, hãy rao giảng trên mái nhà". Ngài đã không ngần ngại tố cáo bọn họ:
"Hỡi loài cứng đầu cứng cổ, hỡi những lỗ tai và những trái tim bất nghĩa, các ngươi chỉ luôn luôn cưỡng lại với Thánh Thần. Các ngươi giống hệt như cha ông các ngươi! Có tiên tri nào mà cha ông các ngươi đã chẳng bách hại? Cha ông các ngươi đã giết hết những người đưa tin Đấng công chính đến, rồi chính Đấng ấy, bây giờ các ngươi cũng đã phản bội và mưu sát. Các ngươi đã lĩnh được luật pháp do Thiên thần chuyển đạt mà nào các ngươi có chịu tuân theo" (Cv 8, 51-54).
Nghe đến đây, họ không thể nén cơn giận được nữa, vì Têphanô đã dám vạch mặt bọn họ đã nhúng tay vào cuộc tử nạn vô tội của Chúa Cứu Thế. Họ nhao nhao, la lối xin điệu Têphanô ra pháp trường ném đá. Và như để nâng đỡ an ủi Têphanô, bầu trời tự nhiên rộng mở và Têphanô được thấy vinh quang của Chúa.
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại: "Còn ngài vẫn đầy Thánh Thần và ngước mắt nhìn trời, ngài thấy vinh quang Thiên Chúa và Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa, Ngài nói: "Kìa tôi thấy trời mở rộng". Bọn họ liền la át đi, bịt tai lại rồi đổ xô vào ngài, đem ngài ra ngoài thành ném đá. Bọn cáo gian để áo ngài dưới chân một chàng thanh niên tên là Saulô coi. Chàng thanh niên đó chính là Phaolô, sau này sẽ trở lại và thành một tông đồ nhiệt tâm của Chúa Kitộ Đang khi họ ném đá, Têphanô cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con". Rồi quì xuống ngài kêu thực to: "Lạy Chúa xin tha cho họ tội ác này". Vừa kêu dứt lời, ngài tắt nghỉ. Hôm ấy có lẽ là ngày 26 tháng 12 năm 35.
Sau khi Têphanô tắt thở, mặc dầu cũng ngày hôm ấy có cuộc tàn sát ghê gớm bùng nổ ở giáo đoàn Giêrusalem, những người đạo đức vẫn can đảm đi chôn cất Têphanô và than khóc thảm thiết. Các giáo hữu những thế kỷ đầu rất tôn sùng thánh Têphanô. Cái chết thảm hại của ngài đã là giây phút mở màn cho biết bao nhiêu cuộc bách hại khác sẽ xẩy đến cho những người muốn theo chân Thầy Chí Thánh. Nhưng cái chết của ngài cũng là một hạt giống sinh ra bao nhiêu hoa trái cho Giáo hội trong những buổi sơ khai.
Có người ghi chép lại câu truyện kỳ lạ sau đây: Ngày thứ sáu mồng ba tháng chạp năm 415, dưới triều đại Honoriô và Thêôđôsiô Trẻ làm Hoàng đế, Đức Innôxentê I làm Giáo Hoàng, một linh mục tên là Luxianô đang ngủ gần giếng rửa tội trong nhà thờ Caphargamala để coi giữ đồ thánh. Vào khoảng ba giờ sáng, một ông lão đạo mạo tay cầm một cái roi bằng vàng quất nhẹ vào người linh mục và nói:
"Hãy chỗi dậy, đi đến Giêrusalem và xin với Đức Giám mục Gioan để tìm kiếm lấy những di hài các thánh không được ai tôn kính.
- Thưa ngài, ngài là ai, và các thánh ngài nói là những vị nào thế? Linh mục Luxianô hỏi vậy.
- Ta là tôn sư Gamaliel, thầy dạy của Phaolô. Ngày nay di hài của thánh Têphanô đã bị những người Do thái ném đá vẫn còn ở bên cạnh nấm mồ của ta. Vậy ngươi hãy đi kiếm cho được di hài ngài về mà tôn kính.
Vị linh mục hỏi tiếp:
- Nhưng làm thế nào mà chúng tôi tìm được mộ ngài?
- "Ở giữa cánh đồng Delagabria nghĩa là những người của Thiên Chúa, vì sau khi Têphanô bị ném đá, xác ngài bị bêu nhiều ngày mà không một con vật nào dám đả động tới. Lúc sinh thời ta có lòng mộ mến Têphanô nên đã cho người chôn cất thánh nhân ở gần mồ của ta". Nói bấy nhiêu ông lão biến mất. Linh mục Luxianô như bị giấc chiêm bao ám ảnh, ngài quì dậy cầu nguyện hồi lâu và xin Chúa nếu có phải việc của Chúa làm thì xin Chúa cho được thấy ông già đó lần nữa. Linh mục lại cầu nguyện và ăn chay nhiều hơn để được ơn ấy.
Ngày thứ sáu tuần sau, ông lão lại hiện ra như lần trước và trách Luxianô sao không chịu đi Giêrusalem để gặp Đức Giám mục. Đoạn ông lão lại chỉ cho Luxianô cách thức tìm di hài Têphanô như thế nào. Luxianô vẫn chưa tin và còn muốn trông thấy ông lão một lần thứ ba nữa mới đi. Nhưng thứ sáu sau nữa là ngày 17 tháng 12 ông lão hiện ra và tỏ vẻ tức giận vô cùng vì Luxianô đã không nghe lời. Lần này Luxianô bằng lòng đi Giêrusalem. Khi Đức Giám mục Gioan nghe biết như thế, ngài rất vui mừng truyền cho Luxianô phải tổ chức tìm kiếm di hài thánh Têphanô.
Ngày hôm sau, linh mục Luxianô tụ tập con chiên bổn đạo lại hát kinh cầu nguyện và rước ra cánh đồng đã được ông lão chỉ cho. May quá, đám rước lại gặp ngay một tu sĩ chỉ chỗ cho bổn đạo đào bới, quả thực họ đã tìm thấy ba quan tài: một cỗ đề Celiel (nghĩa là Têphanô).
Được tin ấy Đức Giám mục Giêrusalem lập tức đến Delagabria. Khi vừa mở quan tài thánh Têphanô, đất liền động và có một mùi thơm ngát toả ra làm cho mọi người đều sung sướng. Ngay lúc đó 73 bệnh nhân đủ các bệnh nan y đều được khỏi. Các Giám mục sau khi hôn kính xương thánh, liền cho vào một hòm rất quí và kiệu về Giêrusalem. Đang khi đi kiệu một trận mưa như lụt đổ xuống phá tan nạn hạn hán đang đe dọa dân gian. Sau này nhờ xương thánh của thánh nhân mà bao nhiêu người được ơn lành; bao nhiêu người được ơn trở lại, chịu phép rửa tội và Giáo hội cũng được thịnh vượng nhiều nhờ công ơn của thánh Têphanô, một vị tiên khởi tử đạo.
(Giáo phận Vĩnh Long)
----------------------------------
ĐỜI SỐNG THÁNH STÊPHANÔ
(c. 36?)
Thánh Stêphanô chịu tử đạo tại Giêrusalem vào năm 35. Ngài được coi là vị tử đạo tiên khởi và vị phó tế tiên khởi của Hội Thánh Kitô giáo.
Tất cả những gì chúng ta biết được về cuộc đời, phiên xử, và cái chết của thánh Stêphanô, thì được tìm thấy trong Chương 7, sách Công vụ các Tông đồ. Trong toàn bộ lịch sử tử đạo suốt hai ngàn năm qua, câu chuyện tử đạo của thánh Stêphanô vẫn là câu chuyện cảm động nhất, và đáng ghi nhớ nhất.
Dù ngài mang tên Hy lạp, nhưng Stêphanô là một người Do Thái. Tên Stêphanô có nghĩa là “Triều Thiên”. Chắc là ngài sinh ra ở ngoài đất Paléttin, tại vùng chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa Hy Lạp. Tân ước không kể cho ta hay hoàn cảnh nào đã đưa ngài đến việc theo Kitô giáo. Có vẻ như liền sau cái chết của Chúa Kitô, được nhìn nhận như Đấng Thiên Sai được Thiên Chúa Xức dầu, Stêphanô đã giữ một vị trí trổi vượt giữa các Kitô hữu tại Giêrusalem, và đã sử dụng tài năng của ông để chiếm sự tin theo của các người Do Thái nói tiếng Hy Lạp hiện đang cư trú trong Thành Thánh.
Lần sớm nhất mà tên ngài được nhắc tới chính là dịp chọn 7 vị lo công việc quản trị các bữa ăn chung. Chúng ta hãy nhớ lại rằng các Kitô hữu tiên khởi đặt của cải của họ dưới sự quản trị chung, người giàu có chia sẻ của cải mình với những người nghèo; và vào thời đó, giống như trong những thời kỳ sắp xảy ra chiến tranh, có rất nhiều ”những người di dân“ đang cần tới lòng bác ái nâng đỡ cho họ. Chúng ta đọc được rằng các người Hy Lạp, tức là các Kitô hữu nói tiếng Hy Lạp, đã nghĩ rằng những người phụ nữ góa trong số họ đã bị phân biệt đối xử trong những bữa ăn chung. Các Tông đồ được cho biết về những sự phàn nàn này, nhưng các ngài quá bận để có thể đứng ra giải quyết vấn đề đó. Do đó các ngài đã chọn bảy vị tốt lành và khôn ngoan để quản trị các bàn ăn chung. Bảy người này được trình lên cho các Tông đồ. Các Tông đồ cầu nguyện và đặt tay trên họ, phong chức phó tế chăm lo bàn ăn chung cho họ. Stêphanô đứng đầu danh sách bảy phó tế, vì ông là con người giàu đức tin và Thần khí Chúa. Chúng ta có thể kể ra tên của những người khác, như ông Philíp, người diễn giải Tin Mừng, ông Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas, và Nicôla: Tất cả họ đều mang tên Hy Lạp. Danh phận của họ là phó tế. Nhưng chữ phó tế thực ra trong tiếng Hy Lạp là “diaconos” có nghĩa là những người lo việc phục vụ. Những người này phục vụ cộng đoàn trong các sự việc phần đời và bác ái; sau này họ cũng đảm nhận thêm những chức vụ nhỏ khác trong các lễ nghi Kitô giáo.
Vậy khi đó, Stêphanô, đã giữ vai trò lãnh đạo; ông đã bắt đầu “lên tiếng công khai cách rất có duyên và mạnh mẽ. Đồng thời ông thi hành những điềm thiêng và dấu lạ giữa dân chúng.” Cũng vào thời gian đó một số các người tư tế của đạo Do Thái đã trở lại với đức tin mới, nhưng họ còn giữ những truyền thống và các phong tục xưa đã được luật Môsê qui định. Stêphanô được chuẩn bị tốt khi tham gia vào các cuộc tranh luận với họ, và rất hăm hở nêu lên cách minh nhiên rằng theo như Thầy Chí Thánh, thì luật cũ đã bị thay thế rồi. Ông liên tục trích dẫn lời của Chúa Giêsu và của các vị ngôn sứ để làm sáng tỏ rằng các phong tục bên ngoài và các nghi tiết xưa không còn quan trọng gì cả so với tinh thần sống đạo mới; thậm chí ngay cả đền thờ cũng có thể bị phá hủy đi, như nó đã từng bị phá hủy trong thời cũ, mà không gây nên thiệt hại gì cho đạo thật và đạo vĩnh cửu. Chính cái lối nói như vậy, cùng với các lời lên tiếng cũng như các dư luận đồn thổi, dù là cố tình hay vô tình, quả thực đã khiến cho Stêphanô trở thành đối tượng của cơn giận dữ của giới tư tế Do Thái.
Stêphanô tranh cãi gay gắt với nhóm những đối thủ Do Thái của ông có biệt danh là “Những người tự do, và những người có dấn gốc tại các miền Kyrô, Alexandria và vùng Kilikia, cùng tỉnh Tiểu Á”. Có lẽ họ đã không hiểu ông; dẫu sao đi nữa, nhưng người tranh luận với ông đã không có câu trả lời nào để đáp lại những câu hỏi ông đã nêu lên, và do đó họ quyết định hạ ván ông. Họ đút lót tiền thuê người tố giác Stêphanô là đã nói những lời phạm thượng chống lại luật ông Môsê và luật của Thiên Chúa. Giới niên trưởng cùng giới tư tế bị khuấy động mạnh mẽ và họ đã đưa ông ra trước tòa Công nghị, là tòa án tôn giáo cao nhất của Do Thái, mang cả hai thứ quyền hành, một là dân sự, hai là tôn giáo.
Những chứng tá giả thay nhau tố cáo các Tông đồ và các tín hữu mới. Stêphanô đã bảo vệ chính mình khỏi các tố cáo đó một cách rất thành công; sau cùng việc bảo vệ của ông biến thành một lời buộc tội chua chát. Ông đã kết luận:
"Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. Các ông là những người đã lãnh nhận lề luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ."
Khi nghe những lời ấy, các đối thủ của ông lòng giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông STêphanô.
Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Vào thời đó người Do Thái có quyền thi thố án tử hình bằng cách hè nhau ném đá người đó cho đến chết. Ông Stêphanô “tràn đầy ân sủng và sự mạnh mẽ” cho tới giờ phút chót, đã đối diện với cơn thử thách đó mà không hề hãi sợ. Ông cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con." Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ.
Trong số những người có mặt và ủng hộ việc giết Stêphanô này, có một người Do Thái có tên là Saulô. Ông ta chính là thánh Phaolô, vị Tông đồ rao giảng Chúa Giêsu cho muôn dân sau này: Ông nắm giữ áo cho tất cả những kẻ toan tính giết Stêphanô để họ dễ dàng hành động. Nhưng chỉ sau đó vài tháng ông đã trở lại Kitô giáo.
Thánh lễ thánh Stêphanô được cử hành vào ngày 26 tháng12, một ngày sau lễ Chúa Giáng Sinh.
Lời bàn
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: Bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết "sung sướng" lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như thánh Giuse hay chết đau khổ như thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
Lm. Đaminh Xuân Uyển SDB
----------------------------------------
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
"Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: 'Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.' Ðề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần,..." (CVTÐ 6:1-5)
Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.
Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. "Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy" (CVTÐ 7:51b).
Lời ngài nói đã làm họ tức giận. "Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, 'Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.'... Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài... Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, 'Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con... Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'" (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).
Lời Bàn
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết "sung sướng" lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
Đã đọc: 557 |