Niềm vui đã đến
 Có một đạo sĩ nọ, trong một giây phút yếu lòng đã phạm một tội rất nặng. Thầy cảm thấy hối hận sâu xa và quyết định dành trọn ba năm để đền tội. Ngày kia, thầy đến hỏi Đức Viện Phụ: -Thưa cha ba năm trời có đủ để khóc than và đền bù tội lỗi của con không ? -Ba năm nhiều quá! Viện Phụ đáp. -Vậy thưa cha, chỉ cần một năm cũng đủ hay sao? -Cha nghĩ một năm cũng là quá nhiều! ¬Vậy thì con nghĩ 40 ngày ăn chay đánh tội nhiệm nhặt là đủ rồi, hay cha thấy vẫn còn nhiều quá? Bấy giờ Đức Viện Phụ mới kết luận: -Cha tin rằng khi một người thành tâm thống hối tội lỗi mình đã phạm và quyết chí từ nay không còn phạm tội đó nữa, thì chỉ cần một ngày đau buồn đền tội và ngày hôm sau khi bình minh trở lại, người ấy phải vui mừng bắt đầu một cuộc sống mới. Sự thực sám hối, đền tội, ăn chay là công việc rất đáng ca ngợi. Hối nhân can đảm nhận sự thật nơi mình và tin cậy vào lòng thương xót tha thứ nơi người mình đã xúc phạm. Nhưng khi tội lỗi đã được tha thứ, việc quan hệ chỉ còn là yêu thương, đôi khi nhắc đi nhắc lại lỗi lầm lại làm mất đi sự thân tình. Hôm nay Phúc Âm Thánh Marcô cũng viết về niềm hoan lạc giữa Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu tự nhận mình là "Vị Hôn Phu". Như thế chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm trên qua hai chiều kích: Sự chay tịnh của toàn thể nhân loại nói chung và từng người nói riêng. Chiều kích thứ hai: Chúa Giêsu là vị lang quân của tiệc cưới. Cho đến nay chay tịnh vẫn là một phần thiết yếu của nếp sống tôn giáo Đông Phương. Người Hồi Giáo giữ thời kỳ chay tịnh Ramadan rất nghiêm túc. Họ ăn chay bắt đầu từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn. Không được ăn, uống, tắm, xức thuốc thơm, cùng mọi nhu cầu không cần thiết khác. Nếu vì lý do sức khoẻ mà một người không buộc ăn chay, thì phải đền bù cho việc phạm luật chay bằng cách làm việc bố thí cho kẻ nghèo khó. Tục lệ của người Do Thái cũng vậy. Trong thời của Chúa Giêsu, đối với người Do Thái, chỉ có một ngày chay buộc, đó là ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Trong ngày đó từ sáng đến tối mọi người " phải ép linh hồn mình" (Lv. 16,31). Luật Do Thái qui định: "Trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội, tuyệt đối cấm không được ăn uống, tắm , xức dầu, mang giầy dép, hoặc sinh hoạt vợ chồng". Cả trẻ em cũng được huấn luyện tập dần giữ chay trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội này để chúng có thể giữ được trong ngày Quốc Lễ đó. Chỉ có một ngày ăn chay buộc đối với mọi người. Nhưng người Do Thái đạo đức cũng giữ thêm một số ngày đặc biệt và ngày thứ hai, thứ năm tuỳ theo nhu cầu riêng tư: -Ăn chay vì tang chế: Từ lúc trong nhà có người chết cho tới lúc chôn cất, tang gia không được ăn uống rượu thịt. -Ăn chay để chuộc tội: trong dân Do Thái vẫn truyền tụng rằng Ruben ăn chay bảy năm vì dự phần bán Giuse. Simon ăn chay hai năm vì tội ghen ghét Giuse. Để đền tội với Tama, Giuse về già chẳng hề ăn thịt hay vui chơi... Nhìn vào sự kiện, trong bầu khí tôn giáo của người Do Thái lúc bấy giờ, việc ăn chay rất thịnh hành. Đây là một cách thức người ta chuẩn bị lòng mình để gặp gỡ Thiên Chúa. Với lòng khao khát mong đợi ngày Chúa đến, họ muốn mời gọi mọi người tận căn hoán cải. Họ kiêng thịt và những thức ăn có men trong các bữa ăn. Thế mà khác hẳn với các môn đệ của ông Gioan và các môn đệ của người Pharisiêu, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài lại ăn uống, không giữ chay theo tập tục của họ. Vấn nạn đặt ra cho Chúa Giêsu quả là nghiêm trọng. Chắc hẳn người ta có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ quở trách các môn đệ mình về việc họ thiếu chay tịnh mà mọi kẻ khác thường làm. Nhưng không phải thế, Chúa Giêsu đưa ra lời bào chữa bất ngờ cho họ dựa trên lãnh vực thật cao cả. Chúa Giêsu tự nhận cho mình một tước hiệu mới: "Vị Hôn Phu". Trong cựu ước, giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Ngài được ví như hôn lễ, Thiên Chúa là Vị Hôn Phu của Israel. Như thế việc giáng lâm của Đấng Mesia hằng được mong chờ, giờ đây khai màn cho mùa cưới. Mọi dân tộc sẽ được dọn cho bữa tiệc thịnh soạn: thịt béo rượu ngon để chúc mừng cuộc chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa trên sự dữ và sự chết (Is. 25,6-9). Như vậy Chúa Giêsu đã gián tiếp nói lên lời chấp thuận về lòng thống hối của nhân loại, những người mà được Chúa đến viếng thăm và đồng bàn tiệc vui với họ. Họ là những người đầu tiên được mời "dự tiệc cưới". Biến cố lịch sử trọng đại đang tiếp diễn. Mùa cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được khánh thành. Đấng Mesia "thết bữa tiệc cứu độ" và mọi người đến đón nhận trong niềm vui hân hoan. Qua những hình ảnh hết sức sống động, Chúa Giêsu muốn cho cử toạ hiểu rằng một nhiệm cục thực sự mới mẻ đã xuất hiện, chúng phá vỡ những nghi thức cũ kỹ thường ngày không còn phù hợp với tình cảnh mới mẻ: "Rượu mới, bình mới" (câu 22b). Chúa Giêsu đã đưa ra một thể chế hoàn toàn mới để thay thế cho thể chế cũ, Thánh Gioan đã tóm lược cách tuyệt hảo sự đổi mới tận căn mà Đấng Mesia mang lại qua câu sau: "Từ sự viên mãn của Ngài, tất cả chúng ta đã nhận được hết ơn này đến ơn khác. Nếu lề luật được ban qua Moisê thì ân sủng và chân lý đã đến với chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô (Ga. 1,16-17). Trong niềm vui hân hoan diệu vời, khi chúng ta có vị hôn phu là Đức Kitô, chúng ta cũng có được cả mẹ của Ngài với muôn vàn tước hiệu nhân đức được gán cho Mẹ: -Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. -Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. -Mẹ Nữ Vương vũ trụ. -Mẹ là "Hòm Bia" Thiên Chúa. -Mẹ là Đấng Trọng Thiêng. -Mẹ là Đấng chỉ bảo đàng lành. -Mẹ là Đấng bầu chữa kẻ có tội. V.V.
Đã đọc: 997 |