Hai văn kiện đặc biệt về Đức Trinh Nữ Maria và Rất Thánh Đức Mẹ Mân côi
I- Chuỗi hạt Mân Côi với Chương VIII, Hiến Chương Ánh Sáng Muôn Dân Công Đồng Vatican II
Đây là một văn bản hết sức cần thiết đối với mọi người công giáo chúng ta. Phải nói từ trước đến nay, trong Hội thánh công giáo có rất nhiều Công đồng chung. Nhưng không có một công đồng nào đề ra một Chương đặc biệt, để nói về Đức Mẹ, như Công Đồng chung Vatiacan II. Các Công Đồng khác chỉ là thêm bớt một, hai vấn đề có liên quan đến Đức Mẹ. Như Công Đồng Epheso năm 431, chỉ đưa ra một luận cứ để lên án Nestorius, và tuyên bố Đức Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Đức Chúa Trời và bản tình loài người ta. Cho nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Công Đồng Laterano năm 649 thời Đức thánh Giáo Hoàng Martino một đã tuyên bố: Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, trước khi sinh, đang khi sinh và sau khi sanh. Còn hai Tín điếu Hồn xác Đức Mẹ lên trời, và Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, là do các ĐGH Pio IX, và Pio XII tuyên bố ngoài công đồng. Do đó, chúng ta thấy Chương VIII về Đức Mẹ thật rất quan trọng. Công Đồng đã xác nhận vị trí của Đức Mẹ trong Giáo Hội, là Đấng tối cao tuyệt đỉnh, chỉ đứng sau Thiên Chúa Ba Ngôi, và trổi vượt trên các loài thụ tạo, kể cả các thiên thần.
Vậy Chương VIII trong Hiến chế ánh sáng muôn dân như thế nào. Thiết tưởng mọi người dân chúa
chúng ta cần phải biết, mà phải biết rõ từng chi tiết. Sau đây là nguyên văn Chương Vlll về Đức Mẹ. (Xin lưu ý: Khi biểu quyết có nên đưa chuơng VIII vào Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, thì có quá nửa Nghị phụ chấp thuận, còn non một nửa không chấp thuận, xin dành riêng một phụ bản bên ngoài. Nhờ có đa số ấy, mà Chương VIII về Đức Mẹ mới được đặt để ở một chương riêng của Hiến Chế).
CHƯƠNG VIII
ĐỨC TRINH NỮ MARIA, MẸ THIÊN CHÚA TRONG MÀU NHIỆM CHÚA KITÔ VÀ GIÁO HỘI
1- Lời mở đầu:
Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu và khôn ngoan, đã muốn hoàn tất việc cứu chuộC thế giới nên khi đến thời viên mãn, Ngài đã sai con mình đến, sinh bởi người Nữ, để chúng ta được nhận làm nghĩa tử. “Vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng tôi. Người đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”. Màu nhiệm cứu rỗi thần linh này được mạc khải cho chúng ta, và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa đã lập làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy liên kết với Chúa Kitô, Thủ Lãnh, và hiệp thông với toàn thể các thánh Người, các tín hữu cũng phải kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Thực vậy, khi Sứ Thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu thế. Được cứu chuộc cách kỳ diệu hơn, nhờ công nghiệp con Ngài, và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con. Đức Maria đã nhận lãnh sứ mệnh và vinh dự cao cả, là được làm Mẹ con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha, và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quý này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời vì thuộc dòng dõi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi. Hơn nữa “Ngài thật là Mẹ của các chi thể Chúa Kito… vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội, là những chi thể của Đấu ấy”. Vì thế Ngài cũng được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao, và độc nhất vô nhị, như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội công giáo được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài tình con thảo, như đối với người Mẹ rất dấu yêu. Bởi thế, khi trình bày giáo lý về Giáo Hội, trong Giáo Hội này, Chúa Cứu thế thực hiện cuộc cứu độ. Thánh Công Đồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ địa vị của Đức Trinh Nữ Maria trong màu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, cũng như làm sáng tỏ bổn phận những người được cứu chuộc, đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ nhân loại, cách riêng Mẹ . các tín hữu. Tuy nhiên Công Đồng không có ý đưa ra 1 học thuyết đầy đủ vế Đức Maria vả gỉải quyết các vần đề, mà sự nghiên cứu của các nhà thần học chưa làm sáng tỏ trọn vẹn. Những ý kiến được tự do trình bày trong các trường phái công giáo về Đấng có địa vị cao nhất trong Giáo Hội thánh, sau Chúa Kito, và cũng là Đấng rất gần chúng ta, những ý kiến ấy đều được duy trì cách hợp pháp.
2- Địa vị Đức Trinh Nữ Maria trong nhiệm cuộc cứu rỗi :
Thánh kinh, Cựu Ứơc, cũng như Tân Ứơc và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày một sáng tỏ hơn địa vị của Mẹ Đấng Cứu Thế, trong nhiệm cuộc cứu rỗi, và đưa địa vị ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Uớc thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kito xuất hiện trên thế giới, được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc, và về sau hiểu theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh của người nữ, Mẹ Đấng Cứư Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đã được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà tổ tông đã nhận được sau khi phạm tội. Cũng thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel. Ngài trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với Ngài, người thiếu nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn, và nhiệm cuộc mới được thiết lập: khi con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại noi Ngài để giải thóat con người khỏi tội lỗi nhờ các màu nhiệm của thân xác Chúa. Nhưng Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Điều đó đặc biệt thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài đem đến cho thế giới chính nguồn sống cải tạo mọi sự, và đã được Chúa ban cho nhiều ơn cân xứng với một sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có gì lạ, nếu các thánh giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện , có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazaret được thiên thần vâng lệnh Chúa, đến truyền tin và kính chào là Đấng đầy ơn phúc. Và Trinh Nữ đã đáp lời Thiên Sứ rằng: “Này tôi là tôi tá Chúa. Xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài”. Như thế, Đức Maria, con cháu Adam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của con Ngài, và nhờ ơn sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ màu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Ireneo nói: Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại. Và cùng với thánh Ireneo còn có rất nhiều thánh giáo phụ thời xưa, cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria: điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin, và so sánh với Evà, các Ngài gọi Đức Maria là Mẹ kẻ sống, và thường quả quyết rằng: Bởi Eva đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống. Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết, cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết Đức Maria vội vả đến thăm bà Elisabeth và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự cứu rỗi Chúa đã hứa, trong lúc đó, vị tiền hô nhảy trong lòng mẹ. Rồi ngày sinh nhật, mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới thiệu với các mục đồng, và các nhà bác học, đứa con đầu lòng của mình, mà khi sinh ra đã không làm giảm bớt, nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Đức Maria dâng con lên cho Thiên Chúa, và đã nghe Simeon báo trước con mình sẽ là dấu chỉ phản kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ. Khi trẻ Jesu lạc mất, cha mẹ đã lo âu tìm kiếm, và gặp lại con trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài không hiểu được lời con nói, nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả điều ấy và suy ngắm trong lòng.
Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ ràng và ngay từ đầu, trong tiệc cưới thành Cana, xứ Galilêa, vì động lòng thương xót, Ngài đã cầu bàu và khiến Đức Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai làm phép lạ đầu tiên của Người. Trong thời gian Chúa truyền đạo. Đức Maria đã đón nhận lòi của Con Ngài , những lời nâng cao nước Trời lên khỏi những lý do và liên huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín. Như thế Đức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập gíá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng ở đó. Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình, và dự phần vào hy lễ của Con với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng, chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm mẹ của môn đệ, qua lời này: “Thưa Bà, này là con Bà”.
Vì Thiên Chúa không muốn tỏ bày màu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng, trước khi Ngài đổ tràn đầy Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông Đồ trước ngày hiện xuống đã kiên tâm hợp ý cầu nguyện cùng với các phụ nữ, với Đức Maria, cùng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần là Đấng đã bao phủ lấy Ngài trong ngày truyền tin. Sau cùng đã gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn cả xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
3- Đức Trinh Nữ và Giáo Hội
Chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất, như lời thánh Tông Đổ dạy: “Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người đã dâng mình làm giá chuộc mọi người. Nhưng vai trò làm mẹ của Đức Maria đối với loài người, không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kito chút nào, trái lại còn làm sang tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Đức Trinh Nữ trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kito, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hợp trực tiếp với Chúa Kitô.
Từ mưôn đời Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa, cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại, và tôi tá khiêm hạ của Chúa. Vì đã cưu mang, sinh hạ, và nuôi dưỡng Chúa Kito, đã dâng Chúa Kito lên Chúa Cha, trong đền thánh, và cùng đau khổ với con mình chết trên thập giá, Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy, và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta.
Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin. Sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại giữ vững bên thập giá, cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thực vậy sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bàu để đem lại cho chúng ta những ân huệ, giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. Với tình mẫu tử, Ngài chăm sóc những anh em của con Ngài, đang lữ hành trên dương thế, và đang gặp bao nguy hiểm thử thách cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù hộ, và Đấng Trung Gian. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Đấng Trung Gian duy nhất.
Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hang với Ngôi Lời nhập thể, và cứu chuộc, nhưng cũng như chức linh mục của Chúa Kito được thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa, được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, thì sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Thế, không những không loại bỏ, mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong sự tuỳ thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tuỳ thuộc ấy của Đức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng, để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung Gian và Cứu Thế.
Đức Trinh Nữ nhờ ân huệ và Sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài đươc hiệp nhất với con là Đấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hợp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosio đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đưc ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô. Thực vậy, trong màu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ. Đức Trinh Nữ Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có. Vì bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh chính con Đức Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Eva mới, Ngài đã đặt niềm tin vào sứ gỉả của Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Nhưng người con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử trong nhiều anh em, nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ.
Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiên kỳ bí và noi gương đức ái của Đức Maria, và khi trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Giáo hội trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép thánh tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt. Giáo Hội cũng là Trinh Nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh truyền lòng trinh nghĩa đã hiến cho phu quân. Và noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững, và một đức mến chân thành.
Tuy nhiên, Giáo Hội qua con người của Đức Trinh Nữ đã đạt tới sự hoàn thiện làm cho mình nên thanh sạch và vẹn tuyền, nhưng Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi, để tiến trên đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt lên nhìn Đức Maria, là một gương mẫu nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn, những nguời được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Đức Maria, và chiếm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể. Giáo Hội cung kính tiến sâu hơn vào màu nhiệm cao thẳm, tức là màu nhiện nhập thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Đức Maria đã mật thiết gán liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói được là Ngài đã quy tụ phản chiếu nơi mình những đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài, và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hợp với nghi lễ của Con Ngài, và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô, càng nên giống khuôn mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc Tông Đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Đấng đã sinh ra Chúa Kito, là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, và được Đức Trinh Nữ sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Đời sống của Đức Trinh Nữ là một gương sáng của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy, phải là động lực của tất cả những ai cộng tác vào Sứ Mệnh Tông Đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại.
4- Việc tôn kính Đức Trinh Nữ trong Giáo Hội
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Đức Maria được tôn vinh sau Chúa Con, vượt trên hết các thiên thần và loài người, vì Ngài là Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, và đã tham dự vào các màu nhiệm của Chúa Kitô. Do đó Ngài đáng được Giáo Hội tôn vinh, và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ những đời rất xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Ngài, trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ Công Đồng Epheso, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu cầu khẩn và noi gương đúng như lời Ngài đã tiên báo: “Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những việc trọng đại”. Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể, và lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Việc tôn kính Đức Maria khuyến khích thêm việc thờ phương Thiên Chúa ba Ngôi. Giáo Hội đã chấp nhận nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian, và nơi chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu: những hình thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận biết đúng đắn, yêu mến ,làm vinh danh và tuân giữ giới răn Chúa Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành, và nơi Người Chúa Cha hằng hữu “muốn có đầy đủ mọi sự”.
Thánh Công Đồng có ý dạy giáo lý công giáo ấy, đồng thòi Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn Ngài, và đã được quyền giáo huấn Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Trinh Nữ và các thánh. Công Đồng cũng hết lòng khiuyến khích các nhà thần học, và những người ra giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chất phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm, cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi quá đáng. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các thánh Giáo Phụ, các tiến sĩ, học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của quyền giáo huấn, họ hãy làm sáng tỏ đứng mức những chức vụ và đặc ân của ức Trinh Nữ. Những chức vụ và đặc ân này luôn quy hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm cho các anh em ly khai, hay bất cứ ai khác, hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận điạ vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến, và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.
5- Đức Maria dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân chúa đang lữ hành
Ngày nay, Mẹ Chúa Jesu đã được vinh hiển hồn xác lên trời, là hình ảnh và khởi thuỷ của Giáo Hội sẽ hoàn thành đời sau. Cũng thế, dưới đất này cho tới ngày Chúa đến. Ngài chiếu sáng như dấu chỉ long cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành.
Thánh Công Đồng rất vui mừng, và được an ủi, khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Thiên Chúa, vinh dự Ngài đáng được, nhất là các anh em đông phương, những người nhiệt thành và hết lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh. Tất cả mọi Kito hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ loài người, để như Ngài đã trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay, được tôn vinh vượt trên các thánh trên trời, Ngài cũng cũng cầu bàu cùng Con Ngài, trong sự hiệp thông toàn thể các thánh, cho tới khi mọi gia đình dân tộc, hoặc đã mang danh hiệu Kitô, hoặc chưa biết Đấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hoà thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia.
- Sở dĩ chúng tôi cho phổ biến nguyên văn Chương VIII, trong Hiến chế ánh sáng muôn dân, vì đây là một văn bản hết sức quan trọng đối với người công giáo, để như đánh đổ những lập luận sai lầm vế Đức Mẹ từ trước tới nay. Ngay trong hàng ngũ dân Chúa, vẫn còn có nhiều ngưởi hiểu sai về Đức Mẹ. Nhất là ảnh hưởng một số anh em ly khai, hay đọc kinh thánh mà không hiểu rõ ràng, rồi bình luận mập mờ, làm suy yếu đức tin. Trong loạt bài truyện tích này, có rất nhiều bài nói về sự xúc phạm đến ảnh thánh Đức Mẹ, thì đã bị phạt ngay tức khắc. Công Đồng Hội Thánh vinh danh Đức Mẹ, tức là vinh danh Kinh Mân Côi, là vì Đức Mẹ rất yêu quý kinh Mân Côi. Cho nên qua các Đức Giáo Hoàng hằng khuyến khích ngưới ta năng lần chuỗi Mân Côi để kính mến Đức Mẹ, là vì lý do đó.
2- Chuỗi hạt Mân Côi với Tông thư Rosarium Virginis Marioe
Trong các Tông Thư của các Đức Giáo Hoàng nói về Chuỗi hạt Mân Côi, và Kinh Mân Côi, kể cả mười hai Tông thư, Tông Huấn rất nổi tiếng của Đức Giáo Hoàng Leo XIII , thì có lẽ không có một văn kiện đặc biệt nào quan trọng, đầy đủ ý nghĩa, sâu sắc. súc tích, đề cao chuỗi hạt Mân Côi cho bằng Tông thư Rosarium Virginis Marioe của Đức Cố Giáo Hoàng Joan Phaolo 2. Chúng tôi chỉ xin trích ra những phần nào thật cần thiết, để qúy độc giả thấy sự quan trọng của Chuỗi hạt Mân Côi như thế nào. Nếu quý vị độc giả nào muốn đọc nguyên văn, thì có thể tìm mua ở các tiệm sách công giáo. Tuy nhiên những phàn chính yếu thì chúng tôi có ghi chép trong cuốn sách này.
|