 Antôn Nguyễn Hữu QUỲNH (Năm), sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình, Y sĩ, xử giảo ngày 10-7-1840 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 10-7.
Ông Antôn Quỳnh Năm sinh năm 1768 tại Quảng Bình, Trung Việt. Khi còn nhỏ đã cùng với hai anh đi tu, ở với Ðức Cha Labartette, đại diện tòa thánh coi địa phận Ðàng Trong. Nhưng vì nhà đã có hai anh đi tu rồi nên bố ngài là ông Nguyễn Hữu Hiệp gọi ngài về nhà, và bắt ngài lập gia đình với một cô thiếu nữ Công Giáo.
Antôn Quỳnh Năm là một người lính can đảm nên khi vua Gia Long đánh Phú Xuân đã cho ngài làm cai đội. Khi thời bình, thấy đời sống quân ngũ khó lòng giữ đạo, ngài mua đất làm nhà và xin xuất ngũ để học nghề làm thuốc và buôn bán. Tài khéo léo đã giúp ngài chữa được nhiều bệnh nhân đồng thời cũng thôi thúc ngài làm việc bác ái không tiếc tiền. Gia đình có ngăn cản thì ngài dọa sẽ vay tiền để tiếp tục làm việc bác ái. Sau ngài sinh sống ở làng Mỹ Hương được chọn làm trùm trưởng, và Ðức Cha Labartette phong cho ngài làm thầy giảng.
Khoảng đầu tháng 6-1838, Vua Minh Mệnh bắt đạo rất gắt và đang truy lùng Thừa Sai Candahl (Cố Kim) lúc đó đang ẩn trốn ở Quảng Bình. Theo lời khai của hai người con của Thánh Quỳnh Năm, vì ngài thường giúp các thừa sai ẩn trốn trong nhà đã có tiếng với các quan nên quan huyện Lệ Thủy đã sai lính đến làng của ngài dò xét tung tích Cố Kim. Lúc ấy ngài đã đem các đồ đạo và Cố Kim trốn ở Kim Sen. Hôm ấy ngài sai ông Du, gia nhân của ngài, về làng cũ lấy thêm đồ dùng, nhưng ông bị quân lính chặn lại tra hỏi chỗ ông trùm Quỳnh Năm giấu Cố Kim. Ông Du chối không biết nhưng lại thú nhận là chủ mình có cất giấu đồ đạo ở Kim Sen. Quan quân vội vã đến Kim Sen bắt được các người có mặt và các đồ đạo. Người con cả hay tin đem tiền đến chuộc. Quan tha cho mọi người trừ ông trùm Năm. Sau đó ông bị dẫn giải về Ðồng Hới giam giữ tại đồn vệ 7 ngày rồi chuyển về khám đường. Tại đây Thừa Sai Borie (Cố Cao), Cha Khoa, Cha Ðiểm và Thầy Tự cũng bị dẫn vào. Ông trùm Năm và Thầy Tự bị giam giữ tại khám đường trong vòng hai năm.
Sau khi bắt được ngài, quan huyện Lệ Thuỷ tra hỏi xem ngài còn giấu sách các linh mục ở đâu không, nhưng ngài chỉ khai tên các cha và các thầy đã bị bắt rồi để không làm hại ai. Theo lời tường thuật của y sĩ Nguyễn Hữu Trí, ngài bị tra khảo và ép buộc đạp ảnh thêm ba lần nữa. Lần thứ nhất vào ngày 2-8 tại nhà quan bộ Uân ở Bố Chính. Vị quan này lôi ngài qua thánh giá nhưng ngài đã phản đối la lên: "Ðó là việc quan làm chứ tôi không chịu".
Quan bộ tức giận đánh ngài 10 cái tát và nói: "Ta là tổng đốc dẫn ngươi đi, nếu lên thiên đàng thì ngươi cũng lên, nếu phải xuống hỏa ngục thì cùng xuống".
Bấy giờ quan án Trư muốn làm vui lòng quan tổng đốc nên cũng lấy roi đánh ngài.
Lần thứ hai tại phòng quan án, cũng có mặt quan tổng đốc. Quan truyền lính khiêng ngài qua ảnh và tuyên bố: "Tên Năm đã chối đạo".
Ngài phản đối liền: "Ðó là việc quan làm, không khi nào tôi dám làm".
Lần thứ ba bị ép buộc bỏ đạo, ngài xin với các quan cho ngài một bản án được chết như Cố Cao. Người ta còn thuật lại rằng sau lần tra khảo đó, quan tổng đốc đã hỏi Cố Cao tại sao các giáo dân khác đã chối đạo mà trùm Năm thì nhất định không chịu. Cố Cao đáp: "Những người khác vì ít hiểu biết đạo lý nên mới chối đạo, còn những người thông hiểu giáo lý và có đức tin mạnh thì không bao giờ. Tôi xin quan lớn đừng có cưỡng bách niềm tin của ông ta nữa vì hình khổ nào có ích chi".
Trong thời gian giam tù có ai đến thăm mà khóc lóc thì ngài khuyên: "Xin đừng khóc nhưng hãy tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho tôi để tôi có sức chịu khổ hình vì Thiên Chúa". Có lần ngài nói với con cái: "Khi bị bắt, bố đã muốn khai tất cả mọi người trong gia đình để cùng được chết với nhau vì đạo thánh". Sau khi Cố Cao, Cha Khoa và Cha Ðiểm bị hành quyết ngày 21-11-1838, ông và Thầy Tự còn được Cha Ngôn đến thăm và cho chịu lễ hai lần. Hằng ngày ông sốt sắng đọc kinh Truyền Tin.
Ông trùm Năm và Thầy Tự bị bắt từ tháng 6 năm 1838 cho tới ngày 10-7-1840 mới bị hành quyết. Sau đây là bản tường trình cuối cùng của vị quan có nhiệm vụ xét xử các ngài: "Hạ thần Nguyễn Xuân Quang, quan án tỉnh Quảng Bình, thừa hành theo lệnh của Hoàng Thượng xin tấu trình rằng: Vào tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 19, quan tổng đốc có giao nộp một bản án nói rằng đã bắt được tên Nguyễn Khắc Tự, đồ đệ của Thừa Sai Cao (Cha Borie), và một người nữa tên là Nguyễn Hữu Năm đã thú nhận tội cất giấu sách đạo. Quan án Phan Trư đã báo cáo như sau: Nguyễn Hữu Năm có tội vì cất giấu sách đạo, không chịu đạp ảnh và cũng không chịu bỏ đạo. Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Ðiểm. Vì thế hắn phải xử án chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ Cố Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo trưởng, nhưng chúng cũng không kém mù quáng và cố chấp, và vì vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.
Năm sau tức là Minh Mệnh nguyên niên thứ 20, theo lệnh Hoàng Thượng hạ thần lại đòi hai tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự ra trước sảnh đường hai ba lần, khuyên nhủ họ thức tỉnh trở về đường ngay. Nhưng chúng vẫn cố chấp như trước, không chịu đạp ảnh. Thần xin lập tờ bá cáo tâu trình Hoàng Thượng: Quả thật hai tên Kitô này không phải là linh mục nhưng mù quáng và cố chấp thật đáng ghét. Thần nghĩ không còn lý gì mà phải giam giữ họ trong tù nữa. Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay. Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp. Chúng vẫn cương quyết không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng Thượng".
Sau đây là lệnh cuối cùng của Vua Minh Mệnh: "Chúng tôi, Võ Xuân Cẩn, Bùi Ngọc Quí và Ðinh Văn Huy, vâng theo lệnh Hoàng Thượng, đã xét tờ trình của quan vào ngày 21-5. Chúng tôi truyền lệnh như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự theo tà đạo, tội đáng chết. Nhưng vì chúng thuộc hạng lê dân ngu dốt và vì lòng nhân từ của Hoàng Thượng không muốn đối xử cay nghiệt nên đã không ngừng ra lệnh cho các quan phải khuyên nhủ chúng sửa đổi để được ơn khoan hồng. Thế nhưng hai tên tội phạm vẫn ngụp lặn trong u mê mù quáng và cố chấp không chịu đạp ảnh. Vì vậy chúng đã tự chuốc lấy án chết. Vậy hai tội phạm phải bị xử giảo không trì hoãn nữa để cái chết của chúng răn bảo những kẻ còn cố chấp không biết tự cải hóạ Cứ thế mà thi hành".
Thái độ của hai vị quan thật cương quyết. Theo lời thuật của nhân chứng trong lần tra hỏi cuối cùng, ông trùm Năm đã mạnh mẽ thưa: "Không bao giờ tôi ưng việc đạp ảnh".
Quan tức giận quát lên: "Tại sao chúng bay mù quáng như vậy?" - "Ðồng ý là có mù quáng, nhưng chính các quan mới là những người mù, còn chúng tôi thì không. Xin hãy ghép cho chúng tôi bản án ngay đi vì chúng tôi sẵn sàng chịu chết, còn đạp ảnh thì không bao giờ".
Khi bản án được vua phê chuẩn gửi về tới tỉnh ngày 12-6-1840 âm lịch, người con cả là ông Ngôn vội vào trong tù báo tin lúc ngài đang ăn sáng. Ngài liền nói với con: "Bố mong đợi giờ này đã lâu, bây giờ được như ý thì còn dùng của ăn dưới thế gian làm gì nữa".
Thứ Bảy ngày 10-7-1840 ông trùm Năm và Thầy Tự được dẫn đến pháp trường gần sảnh đường, cũng là nơi đã hành quyết các Cha Cao, Khoa và Ðiểm. Sau khi từ giã những người thân yêu, cả hai người liền quì gối xuống ngay tại chỗ các cha đã bị xử tử khi trước. Quân lính trói hai tay vào hai cọc và chân vào một cọc như hình thánh giá rồi vòng giây qua cổ, mỗi đầu giây có ba tên lính cầm để khi nghe lệnh thì xiết giây xử tử các ngài. Lúc đó ông trùm Năm thầm thĩ cầu nguyện: "Chúa tôi xưa cũng đã phải giang tay ra như tôi bây giờ mà chịu đóng đinh..." Ngay lúc đó có hiệu lệnh, quân lính liền kéo giây xiết cổ và linh hồn các ngài bay về với Chúa.
Ngày 19-1 năm Minh Mệnh thứ 22, chánh án tỉnh Quảng Bình đã làm tờ phúc trình hằng năm về các vụ hành quyết, trong đó có ghi lại vụ hai Thánh Năm và Tự như sau: "Án xử giảo tức khắc có hai tội nhân là Nguyễn Hữu Năm, sinh năm Mậu Tý, 73 tuổi thuộc làng Mi Hương, tổng Thạch Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, người kia là Nguyễn Khắc Tự, sinh năm Kỷ Tí, 32 tuổi, không rõ quê quán, được biết cư ngụ tại ngoại thôn làng Bình Hải, huyện An Mô, tỉnh Ninh Bình...." Lý do và bản án giống như tờ trình trên.
Đã đọc: 578 |