 Phêrô Phạm KHANH, sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, Linh Mục, xử trảm ngày 12-7-1842 tại Hà Tĩnh dưới đời vua Thiệu Trị, phong Chân Phúc ngày 11-4-1909 do Ðức Piô X, kính ngày 12-7.
Trong Hà Tĩnh, người Công Giáo cũng như lương dân chỉ nói tới Cố Thánh là phải hiểu về đời sống đức hạnh và can trường xưng đạo của linh mục Phêrô Khanh, một chủ chiên tận tụy với giáo dân và một nghĩa phụ của đông đảo linh mục và thầy giảng. Trong số tám linh mục nghĩa tử, có bốn cha cũng được phúc tử vì đạo.
Cha Khanh sinh khoảng năm Canh Tý 1780 tại họ Lương Khế, tổng Cát Ngàn, huyện Thanh Chương, phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Các nhân chứng không biết gì nhiều về thời thơ ấu của vị linh mục già khả kính này, chỉ biết ngài vào nhà Ðức Chúa Trời từ năm 22 tuổi, ở với Cha Ðạc. Cha chính Masson (Nghiêm) viết về ngài như sau: "Cụ Khanh lên bậc kẻ giảng thì chăm chỉ làm các việc bổn phận đáng khen. Hơn nữa người giữ phép tắc nết na chu đáo không ai dám nói điều gì xấu về ngườị Mấy năm làm kẻ giảng cụ đã giúp ích cho linh hồn nhiều người và rất vừa ý bề trên. Cụ Khanh được thụ phong linh mục năm 1819 tại Thọ Kỳ, lúc đã 40 tuổi".
Làm linh mục, Cha Khanh lần lượt coi sóc các xứ: Trại Lê hơn sáu năm, Thuận Ngãi, Quỳnh Lưu 14 năm, Thọ Kỳ một năm, Làng Truông họ Ngàn Sâu một năm rồi bị bắt. Thường các cha sở siêng năng làm phúc tại các họ mỗi năm hai lần để khuyên bảo, giảng dậy và ban các bí tích. Ðặc biệt Cha Khanh sốt sắng đi kẻ liệt dù đang ăn dở bữa cũng bỏ đi ngay, không kể trời mưa gió, lụt lội, đêm hay ngày. Cha Khanh hết lòng khuyên bảo giáo dân làm hòa, tránh kiện cáo trước tòa quan, đừng hùa theo những người nổi loạn. Cha chính Nghiêm viết về đời sống và hoạt động tông đồ của Cha Khanh như sau: "Cụ Khanh được làm linh mục thì chẳng khác nào như đèn treo cao soi sáng cho mọi người trong nhà và càng làm gương sáng hơn nữa về các nhân đức. Cha hết sức lo lắng phần rỗi cho con chiên, sốt sắng làm sáng danh Chúa. Ðặc biệt những người ở nhà Ðức Chúa Trời được ngài dậy dỗ cho có nhân đức hơn người ngoài... Chính vì người nhân đức như vậy mà ngài được Chúa chọn để đổ máu mình ra làm chứng về Chúa Giêsu".
Trong thời kỳ Vua Minh Mệnh cấm đạo ngặt, Cha Khanh trốn ở nhà giáo dân tại Thọ Kỳ và Ngàn Sâu. Khi đưa xác Thầy Phêrô Tự từ trong Quảng Bình ra làng Ðoài, Cha Khanh cố gắng về dự và khi thấy xác thánh của vị anh hùng vẫn tươi tốt thơm tho, cha nói: "Ước gì tôi cũng được như vậy".
Chúa đã nhậm lời gửi dịp đến cho ngài bị bắt. Nguyên Cha chính Nghiêm viết thơ nhắn Cha Khanh lên nhà chung, cha liền lấy thuyền đi từ Ngàn Sâu và trên đường đi ngài ghé thăm họ Thọ Ninh. Ở đây cha bị chó cắn phải ở lại chữa trị một tuần. Trên đường trở về ngài ghé qua Tam Sa bị tuần canh khám xét bắt được đồ lễ của ngài. Chúng liền báo cáo với quan là trong thuyền còn một cụ già đẹp lão. Quan đoán ngay cụ già này là đạo trưởng liền tra hỏi: "Ông làm gì mà có sách, bình dầu và dây này? Ông là thầy thuốc hay là gì?"
Cha Khanh không dấu diếm khai ngay: "Tôi là đạo trưởng".
Tức thì cha bị đóng gông và giam cùng với Thầy Tuyển và một người giáo dân. Hôm ấy là ngày 29-1-1842.
Giáo dân Thọ Ninh nghe tin cha bị bắt thì hứa với tuần canh sẽ cho tiền để họ trả tự do cho ngài, nhưng chẳng may có một tên tuần canh ở trên tỉnh đi qua biết được đã về tỉnh trình với quan trước. Quan tỉnh sai ba chục lính đến điệu cha và các người liên hệ về tỉnh, kể cả hai người lính canh. Trong khi đó thuyền giáo dân Thọ Ninh mang bạc đến chuộc hay tin phải bỏ về, lính áp giải mất cơ hội lấy tiền nên tức giận tra tấn mấy người giáo dân. Giáo dân thưa với cha định đánh bọn lính nhưng cha khuyên họ: "Chúng con hãy bằng lòng chịu khó vì Chúa, đừng than trách".
Tới ngày 3-2, mấy cha con bị đưa lên tỉnh, Cha Khanh bị giam trong ngục Tây còn các người khác phải giam ở trại lính.
Quan đầu tỉnh tra hỏi Cha Khanh ba lần và ép ngài chối đạo. Cha Nghiêm thuật lại như sau: "Trước mặt các quan, Cha Khanh rất run sợ, có khi gần như bị mất trí. Nhưng mỗi khi quan đề nghị bước qua ảnh thì lạ lùng thay Cha Khanh lại cương quyết chối từ. Tôi viết thư an ủi và khích lệ, đồng thời sai nhiều linh mục đến nâng đỡ và ban các bí tích. Cha Khanh viết lại cho tôi rằng những sợ hãi đã qua rồi. Những người săn sóc cha cũng làm chứng là cha đã nói và hành động như một viên dũng tướng, hiên ngang được đổ máu đào vì Chúa Kitô. Các quan không tra tấn ngài nhưng ngài đã can đảm chịu khổ nhục vì gông cùm và tù đầy..."
Một lần quan án Nguyễn Khắc Trạch có ý mở đường để ăn tiền đút lót nên mắng những người thuộc viên: "Sao chúng bay bắt ông lão này? Lão là thầy thuốc, nào có phải đạo trưởng gì đâu?"
Cha Khanh nghe thấy vậy thưa lại: "Bẩm quan lớn, quan lớn nói không đúng. Tôi là đạo trưởng chứ không phải là thầy thuốc không".
Các quan có ý nói để cha khai là thầy thuốc mới có thể làm án nhẹ đi được. Một lần khác quan lại bảo: "Cụ cứ khai là thầy thuốc thôi thì sẽ được tha".
Cha Khanh dõng dạc thưa lại: "Nếu tôi khai là thầy thuốc, đến sau có ai lên làm đạo trưởng giúp dân thì còn ai tin lời nữa?"
Lần thứ ba trước khi làm bản tâu trình về kinh đô, các quan dặn Cha Khanh đừng khai là đạo trưởng mà nhận mình có làm thuốc. Cha Khanh can đảm trả lời: "Tôi đã làm đạo trưởng, giảng giải khuyên răn giáo dân thì tôi phải cứ sự thật mà khai, chẳng nên nói dối. Vì vậy tôi đã là đạo trưởng mà khai là thầy thuốc thì là nói dối tỏ tường. Quan có lòng thương mà tha thì tôi đội ơn, nhược bằng quan không thương mà khép tội, hay là chém tôi ra làm mấy phần, tôi vẫn vui lòng".
Trong thời kỳ chờ đợi án trong tù, có một lần quan lớn đi Hà Nội, mấy quan nhỏ đem Cha Khanh và mấy người cùng bị bắt ra hành hạ, bắt nọc rồi bắt quì trên gạch vụn. Cha Khanh vừa đau đớn vừa kiệt sức chống gông xuống đất chịu đựng và than thở xin Chúa giúp sức. Trong tù cha sốt sắng đọc kinh hoặc đan giỏ cho qua ngày và khuyên bảo những người đến thăm. Khi quan lớn ra Hà Nội đang lúc vợ thứ bị bệnh, cậu cả nhân nói truyện với cai tù có hỏi xem ông có biết ai làm thuốc giỏi để chữa cho bà. Cai tù nói trong ngục có ông cụ đạo chữa được. Cậu cả nhờ cai đội vào trong tù xin Cha Khanh bốc thuốc, cha trả lời: "Tôi chỉ có gông và xiềng mà thôi, chẳng có thuốc gì".
Ông cai đội nói: "Trong nhà quan đã có sẵn các thứ".
Cha lại đáp: "Tôi bị coi là người phạm trọng tội mà ra khỏi ngục nếu quan bắt nét thì làm sao?"
Cai đội năn nỉ: "Ðây cũng là việc lành phúc đức, xin cha đi cho, mọi trách nhiệm khác chúng tôi xin chịu".
Cha Khanh ưng thuận đến nhà quan và lấy trong hòm thuốc của nhà quan năm vị thuốc rồi dặn xắt ra, và bảo đi hỏi các thầy thuốc khác xem có uống được chăng. Cậu cả chẳng hỏi ai khác, một tin tưởng vào lời Cha Khanh, sắc thuốc lên cho bà uống thì thấy bớt ngay. Cậu cả tạ tiền và chè, cha chỉ lấy hai bình chè cho vừa lòng mà thôi.
Ngoài ra, trong tù Cha Khanh còn khuyên bảo và rửa tội được hai vợ chồng cậu Xứng, con một quan án bị giam trong tù. Ðể giúp đỡ họ có đường sinh sống, cha chỉ vẽ cho họ một bài thuốc gia truyền chữa bịnh tả và căn dặn không được lấy nhiều tiền của người ta. Từ đó có ai đến xin thuốc, cha nói họ đến cậu Xứng mà xin vì ngài không làm thuốc. Sau này người ta cứ gọi thuốc ấy là thuốc cố thánh.
Khi vua Thiệu Trị mới lên ngôi, các tù nhân được tha song Cha Khanh vì xưng mình là đạo trưởng và các quan đã tâu về bộ án xử giảo nên bị các quan trong triều đổi làm án tử hình. Lời lẽ trong sắc khiếm nhã hơn là lời phê án của Minh Mệnh. Bản án ghi: "Danh Phạm Khanh là người bản quốc, cả lòng theo đạo Gia Tô đã lâu, lại còn làm đạo trưởng và bấy lâu chưa trị tội được. Sau hết khi bị bắt có lệnh truyền quá khóa nhiều lần mà vẫn không chịu làm theo. Bởi đó đúng là người u mê tối tăm mọi đàng, nên phải xử danh Khanh trảm quyết tức thì".
Bản án của triều đình về tới tỉnh, quan còn nài ép cha quá khóa nhưng cha đã khẳng khái chối từ nói rằng nếu muốn thì đã quá khóa từ đầu, nhất quyết một lòng và sẵn sàng chịu chết. Sáng hôm 12-7-1842, quan giám sát và 30 người lính dẫn Cha Khanh ra khỏi nhà giam và đi đến nơi xử gọi là Cồn Cồ. Có hai người lính nâng hai đầu gông, còn Cha Khanh khoanh tay nghiêm trang vừa đi vừa đọc kinh, nét mặt vui mừng hớn hở. Ông Lương chứng kiến lúc xử Cha Khanh thuật lại rằng khi ông tới nơi thì lính đang cưa gông và xích, Cha Khanh quì trên chiếu, hai tay trói vào cọc đằng sau. Có bốn năm người tù chạy đến thưa với cha: "Con khó nuôi con, xin cha giúp đỡ".
Cha thánh đáp: "Tôi không có gì để cho, có miếng vải này may lại mà lót giường, nếu khó nuôi con thì đưa về cho con trẻ mặc".
Cha xin quan cho phép cầu nguyện một lúc, khi xong việc quan ra lệnh cho các lý hình nghe ba hồi chiêng thì chém. Người lính xử tên là Bếp Xuân thưa với Cha Khanh trước xin tha lỗi vì chỉ làm theo lệnh quan. Vừa nghe tiếng chiêng nó đã chém một nhát đứt cổ liền. Quan cho phép dân chúng đến lấy xác, còn quan và lính rút về thành. Lúc ấy vào khoảng giờ thứ chín ngày 6-6 âm lịch. Những người có mặt làm chứng rằng trời hôm đó nắng ráo nhưng khi Cha Khanh quì gối xuống thì khoảng hai mẫu đất tại pháp trường trở nên tối tăm, và sau khi đầu lìa cổ thì trời đổ mưa giống như mưa đá chừng ba phút. Những người lương đi coi rất đông, thầm thì với nhau: "Sao mà trời thì nắng mọi chỗ, chỉ có nơi xử là mưa?" Hoặc: "Xử cụ đạo có mưa làm vậy là sự lạ".
Muôn người như một ùa vào thấm máu Cha Khanh, tính ra có đến hơn 500 tờ giấy không kể những tấm vải. Người ta tin rằng máu cố đạo chữa được bệnh não như máu của Ðức Cha Borie Cao hồi trước. Thầy Tuyên, ông Thuận lĩnh xác, may đầu lại vào thân và đưa về nhà chung ở Kẻ Gốm. Cha Nghĩa ở xóm Nha cũng sai người đi lo việc an táng và gặp đoàn người này. Ngày 13-7 họ cùng nhau đi về tới Kẻ Gốm nơi cố Nghiêm đang trốn. Dù là mùa hè, thân xác Cha Khanh vẫn thơm tho không có mùi hôi thối, nét mặt vẫn tươi tốt, máu chảy ra vẫn đỏ đến nỗi một cha cứ tưởng cụ Khanh chưa chết. Cha Nghiêm hỏi làm sao xác vẫn mềm, một người giáo dân thưa: "Bẩm vì xác thánh thì mềm".
Cha chính Nghiêm vỗ tay xuống bàn nói: "Ðúng, con nói phải, xác tử vì đạo là xác thánh thật".
Xác Cha Khanh được an táng tạm tại nền nhà thờ cũ. Một số ơn lạ đã được ban cho những người kêu xin, nhất là việc sinh con dễ dàng, nhờ lời bầu cử của Cha thánh Khanh.
Đã đọc: 1259 |