Tin Vui
MỞ RỘNG | THU GỌN

Suy niệm Tin Mừng
Thứ Sáu tuần lễ 30  TN    Thánh hóa ngày lễ nghỉ (Lc 14,1-6)     
Thứ Năm tuần lễ 30  TN    Đáp lại tình yêu Chúa (Lc 13,31-35)     
Thứ Tư tuần lễ 30  TN    Chiến đấu qua cửa hẹp (Lc 13,22-30)     
Thánh Si-mon và Ta-đê-ô, tông đồ (28/10)  TN    Là Tông đồ giáo dân giữa đời (Lc 6,12-19)     
Thứ Hai tuần lễ 30  TN    Đức tin và lòng thương xót (Lc 13,10-17)     
CN 30 TN  Năm C    Lời nguyện vắn (Lc 18,9-14)     
CN 30 TN  Năm C    Lạy Chúa, xin thương xót con      (Dã Quỳ)
CN 30 TN  Năm C    Khiêm tốn     
Thứ Bảy tuần lễ 29  TN    Xét mình, đừng xét đoán (Lc 13,1-9)     
Thứ Sáu tuần lễ 29  TN    Nhận xét dấu chỉ thời đại (Lc 12,54-59)     
Thứ Năm tuần lễ 29  TN    Lửa tình yêu, lửa huyền siêu (Lc 12,49-53)     
Thứ Tư tuần lễ 29  TN    Chúa sẽ đền bù cân xứng (Lc 12,39-48)     
Thứ Ba tuần lễ 29  TN    Tỉnh thức là thượng sách (Lc 12,35-38)     
Thứ Hai tuần lễ 29  TN    Làm giầu trước mặt Chúa (Lc 12,13-21)     

Tìm kiếm nhanh
Theo tên bài hát
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9
Theo ca sĩ
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9

Tìm kiếm audio
Tìm
Theo
Tìm chính xác
Gần chính xác

Công cụ nghe nhạc

Để nghe nhạc, computer của bạn cần có:


Thống Kê
Nhạc phẩm: 5652
Số Ca Sĩ: 212
Thành viên: 360
Thành viên mới:
anhmayly
Đang online: 688
Khách: 688
Thành viên: 0
12/07  Thánh Anê Lê Thị Thành


Anê Lê Thị Thành (Bà Ðê), Phụ nữ có chồng; sinh năm 1781 tại Bái-Ðền, Thanh Hóa; chết rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841, tại Nam-Ðinh. Ngài sanh trưởng trong một gia đình công giáo và là mẹ của 6 người con. Ngài bị bắt khi đem thư của các vị thừa sai bị nhốt trong tù, và bị bắt. Phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ: 12 tháng 7.

Thánh nữ tiên khởi Việt Nam

Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất vì Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng "hùm xám tỉnh Nam" (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon ngọtt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng, đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung toé vì đòn vọt đã trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng : Anê Lê thị Thành, thánh nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Người mẹ gương mẫu

Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau:

"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc dục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ".

Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh: "Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi: Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui long đón nhận Thánh Giá chúa gởi cho. Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi : "Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".

Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.

bác ái đến tử đạo

Ông bà Đê có long bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.

Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.

Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trứơc nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre : "Xin cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt".

Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa.

Mặc áo hoa hồng

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…"

Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn"

Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng : "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá"

Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa". Quả thật bà đã thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:

"Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một lòng".

Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"

Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng"

Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết long theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con".

Cuối cùng bà dâng lời sau hết: "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".

Bà Anê Đê đã về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.

Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.

Ngày 02.05.1909, Đức Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Lê Thị Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

---------------------------------


Anê Lê Thị THÀNH (bà Ðê), sinh năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, Giáo dân, chết rũ tù ngày 12-7-1841 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Thiệu Trị, phong Chân Phúc ngày 11-4-1909 do Ðức Piô X, kính ngày 12-7.

Trong muôn vàn người nữ anh hùng xưng đạo, giáo hội đặc biệt ghi công bà Agnes Lê Thị Thành, quen gọi là bà Ðê theo tên người con trai đầu lòng. Chính Ðức Cha Retord, coi sóc địa phận Tây Bắc Việt đã viết về bà trong thơ ngày 10-2-1843 như sau: "Bà Agnes Ðê sinh ra do cha mẹ Công Giáo thuộc làng Gia Miếu (Bái Ðiền) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ bà đã tỏ ra là một gương mẫu đạo đức: giúp mẹ tiêm trầu bán kiếm cơm ăn, sốt sắng đọc kinh sáng tối, thường hay đi dự lễ, năng xưng tội và rước lễ. Năm 19 tuổi bà lập gia đình với một thanh niên tên Văn Nhân (Nguyễn Văn Nhật) mà sau này người ta gọi là ông Ðê. Hai vợ chồng sống chung hòa thuận, chu toàn các bổn phận. Gia đình sinh sống bằng nghề cầy ruộng và nuôi tằm. Hai ông bà có sáu người con, và lúc bà Ðê chết, bà có tất cả mười bẩy cháu trai và gái".

Khi làm hồ sơ phong thánh, hai người con gái của bà đã cho biết thêm về đời sống trong gia đình. Cha của bà là người khô khan, nhưng chú ruột của bà tên là Công Trường lại rất đạo hạnh. Bà Luxia Nụ, con út, 55 tuổi, nói rằng mẹ bà khi còn nhỏ đã cùng với em gái là bà Thuộc theo chú Công Trường đến ở làng Phúc Nhạc, họ Thôn Ðồng. Các anh trai là Ðê, Trân, và các chị là Thu, Nam và Nhiên. Bà Nam, 67 tuổi, cho biết gia đình không giầu không nghèo, nhưng không bao giờ từ chối một ai đến xin ăn mà không cho.

Bà Ðê dậy dỗ con cái rất chu đáo. Khi con cái khôn lớn lập gia đình rồi mà bà vẫn còn xem xét và thúc dục đi nhà thờ dự lễ và lãnh nhận các bí tích, giúp việc nhà thờ. Mọi người trong làng đều mến hai ông bà vì chẳng bao giờ thấy hai ông bà cãi nhau hay sinh sự với người khác, chỉ biết nhịn nhục và yêu người. Trong thời kỳ cấm đạo, hai ông bà đã mở rộng nhà đón tiếp các cha. Cha Thánh Khoan đã có một thời trú ẩn trong nhà bà và mới nhất là các cụ Kim, Ngân và Thành. Nhà bà đã trở thành nơi các cha dâng thánh lễ.

Ðầu năm 1841 có hai vị thừa sai mới sang là cố Nhân (Berneux, Giám Mục và tử đạo ở Ðại Hàn), và cố Lý (Galy). Ðức cha đưa hai cha về nhà dòng Mến Thánh Giá ở Yên Mới để học tiếng Việt. Nhà dòng rất chật chội nên cố Nhân viết thơ xin Cha Thành ở Phúc Nhạc liệu nơi khác cho cả hai cụ. Cha Thành liền rước cố Lý về nhà ông trùm Cơ, còn cố Nhân về nhà ông tổng Thức. Cha Thành lúc bấy giờ đang ở nhà ông tổng Thức liền chuyển sang nhà ông bà Ðê.

Một chú học trò của Cha Thành tên là Ðễ không biết vì có điều gì uất ức hay vì ham tiền đã đi tố cáo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Vị quan này, lúc đó đang có lệnh vua phải lùng bắt cho bằng được Danh Trùm Vọng (tức là Ðức Cha Hermosilla, địa phận Ðông Bắc Việt), liền mang quân lính đến vây làng Phúc Nhạc. Sáng hôm Chúa Nhật Lễ Phục Sinh ngày 11-4-1841, 500 quân lính vây Thôn Ðồng. Cha Thành và Cha Ngân hôm đó đi làm lễ ở nơi khác nên ở ngoài vòng vâỵ Hai cố Nhân và Lý làm lễ tại nhà ông tổng Thức nên ở trong vòng vây. Sau khi vây kín, quan tổng đốc truyền lệnh tất cả đàn ông trong vòng vây phải ra ngoài chợ Phúc Nhạc điểm danh, còn lính vào trong các nhà lục soát. Ông tổng Thức sợ các cố bị bắt trong nhà mình nên đưa cố Nhân trốn ở gác bếp nhà dòng. Quân lính tới khám nhà dòng thấy một vạt áo thò ra ngoài liền bắt ngài. Hai chị nhà dòng là Thanh và Khiêm ẩn ở bụi tre thấy lính bắt được cố Nhân vội chạy ra khóc lóc cũng bị bắt theo. Trong khi đó ông trùm Cơ đưa cố Lý trốn sang các nhà khác nhưng không ai chịu chứa chấp cả nên ông phải đưa cố vào vườn nhà bà Ðê. Bà Ðê chỉ cho cố cái rãnh khuất sau bụi tre giữa nhà dòng và nhà bà và nói: "Xin cố ẩn chỗ này. Ðức Chúa Trời có gìn giữ cố thì cố mới khỏi bị bắt, bằng không nó bắt được cố thì nó cũng bắt con nữa, hai cha con sẽ bị bắt với nhau".

Nói xong bà và cô con gái út tên là Nụ lấy rơm phủ lên chỗ cố Lý trốn. Nhưng ngay lúc ấy quân lính trông thấy đã ập tới bắt cố Lý và bà Ðê, tịch thu các đồ đạc trong nhà, nhất là một trăm tấm vải Cha Thành mua cho người nhà và hòm bạc. Thế là quân lính giải hai thừa sai, bà Ðê, hai chị dòng, ông Ðê, trương Cai, trùm Cơ, khán Hiếu và xã Tuệ, cùng với bốn người không có đạo là tư Phác, cai tổng Cơ, phó tổng Dư và khán Lễ về chợ. Hai thừa sai phải ở trong cũi còn các người khác phải mang gông. Tất cả được giải về tỉnh Nam Ðịnh trong cùng một ngày.

Sau nhiều trận đòn tra tấn, tám người đã bước qua ảnh, còn lại bà Ðê, hai chị nhà dòng và hai cha thừa sai. Hai vị thừa sai được lệnh đưa về kinh đô Huế ngày 9-5 và được trao trả cho tầu Pháp ngày 17-3-1844. Bà Ðê và hai chị nhà dòng bị tra tấn ba kỳ liên tiếp hết sức man rợ. Sau khi giải về tỉnh, bà bị giam ở dinh quan án sáu ngày mới được mang ra tra khảo. Các quan dụ dỗ bà quá khóa nhưng bà và hai chị dòng đã anh dũng xưng đạo, thà chịu chết chứ không bước qua ảnh. Bà Ðê nói: "Thưa quan lớn, tôi tin theo Ðức Chúa Trời, không bao giờ tôi dám bỏ".

Quan hỏi đến hai vị thừa sai từ đâu mà tới Phúc Nhạc, bà thưa: "Tôi không biết các ngài từ đâu tới nhưng chỉ biết quân lính đã bắt được các ngài trong vườn nhà tôi và bắt tôi chịu tội chứa chấp".

Quan dọa nạt bà cũng không nói gì thêm hay xưng tên một ai. Thấy bà và hai chị dòng gan góc như vậy, quan ra lệnh cho lính đánh đập họ, lúc đầu bằng roi ngắn rồi sau bằng gậy tre và thanh củi. Họ đánh tàn nhẫn, máu me chảy ra đầm đìa. Khi về trại giam, người ta hỏi bà Ðê bị đánh đòn đau như thế nào, bà nói: "Người thế gian không có sức nào mà chịu được, song khi tôi phải đòn thì Ðức Mẹ thêm sức mạnh cho tôi nên tôi không biết đau".

Lần thứ hai quan lại bắt các bà quá khóa nếu không sẽ bị đánh đập cho đến chết. Bà Ðê và hai chị dòng vẫn một mực cương quyết. Vết thương ba bốn bữa trước vẫn còn, nay lại bị đánh thêm nên cả ba đều ngã quị xuống. Thấy quân lính đánh đã mỏi tay, Trịnh Quang Khanh bộc lộ thú tính của mình, cho lính lột trần hai chị nhà dòng trước mặt mọi người, còn bà Ðê vì đã già nên quan không bắt lột trần. Sau đó quan cho mang lò lửa ra trước bụng các chị dòng và hỏi hai chị có xấu hổ vì phải lột trần không. Hai chị đáp lại: "Chúng tôi dĩ nhiên e thẹn, song bà lớn cũng hổ thẹn nữa".

Lúc ấy bà vợ của Trịnh Quang Khanh yêu cầu ông chấm dứt cảnh chướng mắt ấy.

Vài ngày sau, Trịnh Quang Khanh lại cho đưa bà Ðê và hai chị dòng ra ép quá khóa. Cả ba người nữ một mực anh hùng xưng đạo. Quan cho lính đánh đòn mỗi người 60 roi. Sau đó ông lại ra lệnh cho bắt rắn bỏ vào trong người các bà và túm các ống quần và ống tay áo để rắn không ra được. Các bà không động đậy nên rắn lại chui ra. Không làm sao lung lay được ba người đàn bà, quan lớn vừa tức giận vừa hổ thẹn nói: "Chẳng có lẽ nào tao lại chịu thua. Bớ lính đâu! Hãy lôi chúng nó qua thánh giá".

Thế là một đám lính ùa vào cầm chân cầm gông lôi họ qua và dí chân xuống cho đụng vào ảnh. Bà Ðê nằm bò ra để cưỡng lại, miệng phân phô: "Lạy Chúa tôi, xin giúp sức cho tôi. Tôi không bao giờ muốn bỏ đạo thánh Chúa, song vì đàn bà yếu sức bị chúng ăn hiếp lôi qua".

Hai chị dòng thì nói lại: "Tội này ông lớn phải chịu, chúng tôi không quá khóa".

Tuy nhiên để vuốt ve tự ái, quan cứ cho làm giấy là ba người đã quá khóa. Về tới nhà giam, bà Ðê lo buồn áy náy sợ mang tội nhưng sau được một vị lão thành là cụ Ðào cũng trong tù giảng giải cho biết không có tội gì cả bà mới yên lòng. Ðức Cha Retord cho biết sau này hai chị dòng Thanh và Khiêm bị mắc mưu của quan đã ký vào tờ giấy bỏ đạo như sau: Quan đưa tờ giấy và nói đó là bản án để tâu vua các tù nhân phải ký vào. Ban đầu các bà chối nhưng quan lại nói: "Vì các bà không chịu đạp ảnh nên chắc chắn các bà phải án tử, đây là bản án các quan lớn sắp viết vào, các bà phải ký vào trước khi gửi vua".

Các chị nói: "Nếu là bản án tử thì chúng tôi ký cả hai tay".

Các chị có ngờ đâu đó chính là tờ mang những lời lẽ chối đạo. Khi biết ra thì đã trễ, các quan nhất mực không cho lấy lại, cứ tâu về kinh là hai chị đã bỏ đạo. Vua ra lệnh đánh đòn hai chị một trăm roi và nộp mười quan tiền rồi đuổi về.

Suốt trong thời gian ba tháng bị giam tù, bà Ðê vẫn tỏ ra vui vẻ không phàn nàn. Người con gái út làm chứng như sau: "Lính không cho tôi vào thăm nhưng họ đem mẹ tôi ra ngoài sân nói truyện với tôi. Thấy mẹ tôi mang gông bọc sắt khổ sở tôi oà lên khóc, mẹ tôi an ủi: - 'Con chớ khóc làm chi, mẹ đeo hoa trên người mà. Con cứ về nhà xem sóc cửa nhà, còn việc mẹ thì để mặc mẹ'.

Tôi thấy áo quần mẹ tôi vẫn còn dính đầy máu, chân tay sưng lên và xông mùi thối tha, nhưng nét mặt mẹ tôi vẫn vui vẻ hớn hở".

Bà An, nữ tu được địa phận sai ra Nam Ðịnh săn sóc các tù nhân Công Giáo, cũng làm chứng: "Bà Ðê rất sốt sắng, không những bà đọc kinh sáng tối ở trong tù, mà ban ngày bà cũng hay lần hạt và ngắm đàng thánh giá. Sau khi bà vào tù mấy ngày tôi đã tìm cách đưa cha vào giải tội và cho bà rước lễ.

Nửa tháng trước khi bà Ðê trút linh hồn về với Chúa, bà bị cơn sốt mê man, bao nhiêu thuốc thang cũng không chữa được. Bà An thấy vậy lại cho mời cha lén vào giải tội cho bà. Lính xin với quan tháo gông cho bà nhưng quan không cho. Bà Ðê luôn miệng kêu: "Lạy Chúa tôi, Chúa đã chịu đóng đanh vì tôi, Chúa định cho tôi thế nào tôi xin chịu làm vậy. Tôi phó dâng linh hồn và xác trong tay Chúa tôi, xin Chúa tha tội cho tôi".

Trong những ngày bà ốm liệt, hai chị nhà dòng và ông Ðê thay phiên nhau an ủi và khuyên bảo bà. Khi bà kiệt sức, hai chị dòng giúp bà phó linh hồn, bà mấp máy môi đọc theo. Sau cùng bà kêu tên cực trọng Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse rồi trút hơi thở cuối cùng, cổ vẫn mang gông. Hôm ấy là ngày 12-7-1841, bà thọ khoảng 60 tuổi.

Sau khi lính đến báo cho quan lớn biết bà Ðê đã qua đời, quan cho lệnh đốt chân bà để chắc chắn bà đã chết rồi mới cho phép giáo dân Nam Ðịnh đem xác bà đi chôn ở Năm Mẫu. Những người tẩm liệm nói rằng thân xác bà Ðê vẫn mềm mại tươi tốt, đẹp hơn khi còn sống. Sáu tháng sau, các con của bà ra Nam Ðịnh bốc xác về. Khi mở nắp quan tài, mọi người đều nhìn thấy xác bà còn nguyên vẹn, mặt mũi như khi còn sống, áo quần không bị hư hại. Nhưng thật đáng tiếc họ đã phải bỏ vôi vào cho rữa thịt ra để lấy xương bỏ vào hộp gỗ sơn son do địa phận sắm và đem về chôn tại vườn nhà ông Ðê. Năm 1881, cha xứ đem bà về an táng chung với bẩy đấng tử đạo Phúc Nhạc trong mồ riêng.

Đã đọc: 945


Đăng nhập

Nhớ cookie?

Quên mật khẩu
Đăng ký mới

Hình thành viên


nguyen van phuc

Bài Mới Đăng
CN 30 TN C: Khiêm tốn, không khinh chê ...
CN 30 TN C: Công chính và khiêm tốn
CN 30 TN C: Cầu nguyện trong khiêm tốn
CN 29 TN C: Nhìn mọi sự bằng góc nhìn ...
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
CN 27 TN C: Để Đức Tin Lớn Mạnh
Mẹ Mân Côi: Sẵn sàng đón nhận và can ...
CN 26 TN C: Bệnh vô cảm
CN 26 TN C: Sẵn một vực thẳm
CN 26 TN C: Nhạy bén trước điều tốt - ...

Nghe nhiều tháng 10
8. Điều đó rồi cũng qua đi
CN 4 TN B: Giải thoát sự dữ
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
Mùng 2 Tết: Đạo hiếu
CN 29 TN B: Chỗ nhất trên Nước Trời
23. Thánh Augustinô: Chúa ở trong con; còn ...
Mùng 1 Tết: Xin Chúa chúc lành
Lời kinh tuyệt vời
Lễ GS: Quà tặng Giáng Sinh
Mùng 1 Tết: Đừng lo lắng

Đọc nhiều tháng 10
Sự tích trái sầu riêng
Những niềm vui nhỏ
Ba câu chuyện cuộc đời của Steve Jobs
Chuột nhiều vô kể
Bài giảng trên núi
Sự tích cái chổi
Vàng lấy con vua
Nợ như chúa chổm
Lá thư cuối cùng của người lái xe tải
Lầm lẫn mà thôi


Album mới

 CN 31 TN năm C 3

 CN 30 TN năm 3

 CN 29 TN năm C 3


  Dòng Đa Minh Việt Nam
  Vietcatholic
  Kinh Thánh Các Giờ ...
  Gx. Đa Minh
  Dòng Đồng Công
  Công Giáo Việt Nam
  Tuổi mực tím

Trang chủ -|- Thành viên -|- Hướng Dẫn Sử Dụng -|- Tìm Kiếm