 Anrê Nguyễn Kim THÔNG (Năm Thuông), sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh, Thầy Giảng, chết rũ tù ngày 15-7-1855 tại Mỹ Tho dưới đời vua Tự Ðức, phong Chân Phúc ngày 11-4-1909 do Ðức Piô X, kính ngày 15-7.
Theo bước chân anh dũng của các quí chức tử vì đạo như ông trùm Ðích, ông Lý Mỹ, ông Thọ và ông Cỏn của miền Bắc, ông Quỳnh và y sĩ Simon Hòa của miền Trung, và ông trùm Giuse Lựu của miền Nam, cụ Anrê Nguyễn Kim Thông tức Năm Thuông cũng đã anh dũng tuyên xưng đức tin làm vẻ vang cho giáo dân Bình Ðịnh (Qui nhơn được đổi thành Bình Ðịnh khi vua Gia Long chiếm từ quân Tây Sơn). Ðức Cha Cuénot đã gọi ngài là bông hoa của toàn giáo phận Qui Nhơn.
Theo lời khai của người con trai là Tôma Ngọc và cháu gái là Luxia Thi, chúng ta có thể đoán ngài sinh khoảng năm 1790 tại Gò Thị, thôn Xuân Phương, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh. Cha mẹ ngài là ông bà Nguyễn Kim Chánh và Ðặng Thị Mẫn. Ngài là con thứ tư nên được gọi là Năm theo tục lệ gọi người con cả là anh Hai. Trong số con cái của cụ Năm Thuông có linh mục Nguyễn Kim Thứ và nữ tu Nguyễn Thị Nhường. Vừa có học vừa đạo đức nên ông được Ðức Cha Cuénot đặt làm thầy giảng và dân chúng bầu làm lý trưởng làng Gò Thị. Nhờ thế cụ Năm Thuông đã có thể che chở bao bọc đức cha và giáo dân trong thời gian bắt đạo gắt gao. Chính đức cha và nhiều linh mục đã trú ngụ trong nhà của ông nhiều lần.
Là thầy giảng giáo dân, cụ đã biểu lộ một đời sống đức tin kiên cường, một lòng bác ái độ lượng, một lòng nhiệt thành giảng dậy và giúp đỡ giáo dân lãnh nhận các bí tích. Cụ luôn luôn ăn mặc đơn sơ, không bao giờ uống rượu hay ngồi không nhàn rỗi. Cụ có lòng sùng kính Ðức Mẹ cách riêng và đã dựng trong vườn một đài Ðức Mẹ Khiết Tâm. Chính vì trách nhiệm, cụ đã nặng lời khiển trách người cháu bê tha tên là Út, và nói với người con trai là Xã Bảy và con rể là Sáu Kham loại trừ đứa cháu ra khỏi danh sách trong làng xã. Ðể trả thù ông, người cháu đã nỡ tâm viết một thơ nặc danh tố cáo ông mình là người Công Giáo với quan tỉnh Bình Ðịnh. Thế là cụ trùm Anrê Năm Thuông bị bắt điệu lên tỉnh. Người ta không biết chắc cụ bị bắt ngày tháng nào, chỉ biết khoảng cuối năm 1854.
Vì kính trọng đức độ của người anh hùng xưng đạo, quan đầu tỉnh không đánh đập mà trái lại còn để cho cụ được khá tự do và thỉnh thoảng được về thăm gia đình. Tuy nhiên trong tù cụ vẫn phải mang xiềng xích và gông như những người khác. Gặp ai đến thăm cụ khuyên họ can đảm bền vững giữ đạo. Ngài nói: "Tôi đã già yếu và vất vả đã nhiều nên không tiếc gì mạng sống. Tôi sẵn sàng chịu đi đầy, tôi ước mong được chết vì Chúa và không để cho ai vận động xin tha cho tôi cả".
Theo sắc lệnh của triều đình, quan đầu tỉnh nhiều lần khuyên giục cụ chối đạo. Quan ngọt ngào dụ dỗ mong làm lung lạc một người có đức tin như sau: "Thôi ông hãy chối đạo âm thầm, rồi tôi sẽ cho trở về nhà với gia đình, sau đó xưng tội như vậy có gì xấu đâu?"
Cụ Anrê trả lời: "Thánh giá mà tôi tôn thờ hôm qua không thể dày đạp dưới chân hôm nay được".
Một lần khác cụ trả lời quan: "Lưu đầy hay phải chết vì Thiên Chúa là điều tôi mong ước chứ không bao giờ chịu chối đạo".
Sau khi bị giam tù hơn ba tháng, án của triều đình ra lệnh ông phải lưu đầy tại Mỹ Tho. Các con dự tính chạy tiền để quan tỉnh tìm cách giảm án nhưng vị anh hùng đã nghiêm cấm các con mà nói rằng: "Hãy tuân theo thánh ý Chúa cho trọn vẹn".
Thế là cụ Anrê với bốn người giáo hữu can trường khác, thuộc tỉnh Bình Ðịnh, đeo gông và mang xích lên đường đi đến nơi lưu đầy. Cuộc hành trình thật khó nhọc và lâu dài, qua Phú Yên, Khánh Hòa rồi tới Bình Thuận. Tại Bình Thuận, cụ được diễm phúc gặp người con linh mục là Cha Thứ để xưng tội và lãnh các bí tích. Khi tới Sài Gòn, các anh hùng xưng đạo phải lưu đầy được gặp Ðức Cha Lefebvre, lúc đó đang trốn ở Thị Nghè. Mọi người khuyên cụ Anrê ở lại Sài Gòn và chính quan khâm sai cũng ưng thuận như vậy, nhưng người lính chiến của Chúa Kitô muốn theo chân thầy mình nên đã trả lời: "Tôi muốn chịu trọn vẹn bản án và mong cho đến nơi sớm hết sức".
Tại Sài Gòn, cụ Năm và các bạn tù được cha sở họ Chợ Quán ban các bí tích và xức dầu trước khi họ tiếp tục hành trình đến nơi chỉ định. Cụ Năm phải đầy ở Mỹ Tho và dừng lại ở đây, còn các bạn khác tiếp tục đi Vĩnh Long. Trên đường họ dừng lại ở Cái Nhum và được Cha Borelle đến thăm. Nghe biết tình trạng sức khỏe của cụ Năm bị sa sút tại nơi lưu đầy, Cha Borelle cho gọi y sĩ Thiện đến chăm sóc, nhưng y sĩ Thiện chưa tới nơi thì cụ đã bị một cơn sốt nặng và qua đời ngày 15-7-1855.
Năm giáo dân hiện diện giúp cụ Năm trong giờ sau cùng đã làm chứng: "Trong giờ hấp hối, cụ Năm được biết quan đã chỉ định cho cụ phải lưu đầy ở Bắc Chiên, địa hạt cuối cùng trong tỉnh. Cụ đã xin đưa cụ đến đúng nơi đã chỉ định để của lễ hy sinh của cụ được hoàn tất. Ngay lúc đó cụ lên cơn sốt mê sảng, mỗi khi tỉnh lại cụ xin những người chung quanh cầu nguyện. Những người chứng kiến cơn hấp hối của cụ, vội vàng tháo xích ra cho cụ nhưng cụ cấm họ làm như thế và lấy tàn sức còn lại cụ bắt đầu đọc bẩy bài Thánh Vịnh thống hối và những kinh kính Ðức Nữ Trinh Maria. Cụ trút hơi thở cuối cùng, trên môi vẫn còn mấp máy tên người Mẹ quí yêu trong suốt đời cụ".
Cha Borelle kết thúc bài tường thuật về cái chết dũng cảm của cụ Anrê Năm Thuông bằng những lời của Ðức Cha Lefebvre, một người rất quen biết cụ, gởi gắm cụ với ngài, như sau: "Bởi vì ông rất xứng đáng được chăm sóc, ông đã yêu mến dân chúng rất nhiều. Tôi nghĩ đến lời Thánh Gregorio VII nói lúc chết: 'Tôi yêu chuộng công chính và ghét gian tà vì thế tôi chết trong nơi lưu đầy’". Thầy giảng do Cha Borelle sai đến đã xin với quan địa phương để mang xác cụ Năm Thuông về an táng tại Cái Nhum, đêm ngày 20 rạng 21-7. Hiện diện trong thánh lễ an táng có Cha Borelle, bốn linh mục và hàng ngàn giáo dân Vĩnh Long. Mấy năm sau các con của ngài là Tôma Ngọc và Xa đến Cái Nhum bốc mộ đưa về Gò Thị. Theo lệnh của đức cha, đại biểu của mười lăm họ đạo trong địa phận có mặt để nghênh đón hài cốt người trùm trưởng suốt đời hy sinh vì Giáo Hội. Năm 1909, hài cốt được Tòa Giám Mục Qui Nhơn gửi một phần sang Bộ Truyền Giáo, một phần gửi đến chủng viện Làng Sông và một phần giữ lại ở Tòa Giám Mục.
Đã đọc: 517 |