 Giuse FERNANDEZ Hiền, sinh năm 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 24-7-1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 24-7.
Thánh Giuse Fernandez sinh ngày mùng 3-12-1775, tại làng Ventosa de la Cuesta trong địa phận Avila, tỉnh Valladolid, nước Tây Ban Nha. Ngay từ hồi còn trẻ ngài đã xin đi tu dòng Ða Minh. Cha Mẹ ngài rất đỗi vui mừng và lấy làm hãnh diện coi ơn kêu gọi đi tu dòng của đứa con trai mình như một đặc ân của Chúa. Ngày 12-8-1796, ngài khấn trọng thể tại tỉnh dòng Valladolid. Khi học xong Thần Học, ngài được thụ phong Linh Mục. Sau đó vì ước ao được dâng hiến đời mình cho công việc truyền giáo nên ngài xin Bề Trên chuyển về Tỉnh Dòng Mân Côi tại Manila. Ngài đến Manilla ngày 16-4-1805. Gần một năm sau, ngài được cử làm đại diện cho Hội Ðồng Truyền Giáo đi Ma-Cao ngày 18-2-1806. Sau đó ngài được Bề Trên sai đi Bắc Việt giảng đạo. Ngài đi tầu đến cửa Thuận An thì bão táp nổi lên nên ngài phải lên đất liền để đi bộ ra Bắc. Cuộc hành trình xa xôi thật vất vả nên ngài đến nơi thì kiệt sức phải nghỉ dưỡng bệnh một thời gian khá lâu. Lúc ấy là thời vua Gia Long đang trị nước, đất nước được bằng yên và các vị thừa sai được hoàn toàn tự do giảng đạo trong nước.
Ngài rất chăm chỉ học tiếng An Nam để có thể giúp đỡ giáo dân hữu hiệu và dễ dàng hơn, nên chẳng bao lâu ngài đã thông thạo tiếng An Nam. Vì ngài có tính hiền lành, khiêm nhường và dễ dãi nên tất cả mọi người, kể cả những người ngoại đạo đều kính mến ngài. Hạnh phúc của ngài là đem Chúa đến cho mọi người. Ðức tin mạnh mẽ của những người trong làng Xuân Dục là công lao ngài xây đắp. Xứ Kiên Lao nơi ngài coi một thời gian khá lâu cũng nhờ ngài mà số giáo dân lên tới 5.000 người thời vua Minh Mạng bắt đầu cấm đạo. Sau đó ngài về cai quản nhà trường lý đoán. Cuối năm 1837 khi ngài đang coi sóc nhà tràng La Tinh ở Ninh Cường thì bị bệnh lị rất ngặt nghèo, đe dọa tính mạng ngài. Nhưng phúc thay, qua mùa Xuân năm 1838 ngài được bình phục. Tính ra ngài đã sống cuộc đời truyền giáo tất cả được 30 năm. Bao nhiêu năm trời ngài làm việc không ngừng, nhưng có một điều ngài lấy làm hài lòng nhất là suốt thời gian qua ngài không phải làm bề trên các anh em trong dòng. Khi ngài vừa mới khỏi bệnh thì nghe tin Ðức Cha Y (Delgado) bị bắt tại Kiên Lao và đồng thời được tin bên Manilla các anh em trong dòng đã bầu ngài lên làm Bề Trên Tỉnh Dòng coi sóc các việc bên đó. Vì đức vâng lời, ngài vội vàng sửa soạn nhận chức vụ mới, nhưng chưa kịp làm gì thì việc cấm đạo bắt đầu gắt gao hơn, ngăn trở công việc của ngài.
Lúc đó ngài đang ở Ninh Cường, giáo dân trong làng sợ các quan bắt được ngài ở đó thì nguy cho cả làng, nên giục ngài đi nơi khác dù biết rằng ngài vẫn còn đang yếu đuối, sức khỏe chưa được hoàn toàn bình phục: "Xin cha đi khỏi nơi đây đi, nếu không cha bị bắt ở đây thì chúng con không những mất gia sản mà mất cả tính mạng nữa".
Thế rồi ngài phải theo hai thầy kẻ giảng sang làng Quần Liêu bên cạnh, nhưng dân làng ở đó cũng sợ hãi chẳng kém gì bên làng Ninh Cường. Họ van xin vị truyền giáo đừng ở lại đó. Tội nghiệp cho vị linh mục già cả ốm yếu, dù ngài và hai thầy kẻ giảng đã dùng hết lý lẽ để khuyên bảo cũng vô ích. Thật đúng như lời Chúa Kitô nói: "Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người lại không có chỗ tựa đầu". Ðang trong hoàn cảnh bối rối đó thì may thay có Cha Tuần đang coi xứ Lạc Môn đến, tạm thời gỡ rối cho ngài. Cha Tuần cảm thấy thật xấu hổ về hành động của họ nên ngài hết sức quở trách về sự hèn nhát, vô ơn và độc ác của họ. Vì vậy họ mới miễn cưỡng cho ngài trú ẩn trong làng nhưng chỉ hai ngày thôi, để ngài có đủ thời gian kiếm chỗ khác trú ẩn. Cha Tuần thấy ngài đã yếu đuối khổ sở như vậy nên quyết định ở lại bên cạnh giúp đỡ ngài dù có xẩy ra chuyện gì cũng không bỏ ngài.
Sau hai ngày trú ẩn trong làng họ bắt buộc ngài phải ra đi, nhưng chung quanh đó chẳng có chỗ trú ẩn nào an toàn cả. Cuối cùng Cha Tuần dẫn ngài sang địa phận Tây Ký, bên kia sông, để kiếm chỗ ẩn an toàn hơn. Khi mới sang đó, họ được bổn đạo Kim Sơn tiếp đón và giúp đỡ. Nhưng cũng chỉ được mười ngày vì khi quan tổng đốc tỉnh Nam Ðịnh hay tin vị linh mục ngoại quốc đã trốn thoát sang Ninh Bình, ông liền báo tin và xin quan tỉnh Ninh Bình dùng mọi cách để kiếm bắt ngài. Khi bổn đạo Kim Sơn nghe tin như vậy thì sợ hãi vô cùng. Họ ép buộc hai cha xuống chiếc thuyền nhỏ và giấu trong một cái đầm lầy ở gần đó. Thuyền thì nhỏ thiếu tiện nghi, mà trời mùa hạ lại nóng nực bức sốt, và nhất là đầm lầy dơ dáy nhiều muỗi nên hai vị đã phải chịu cực khổ biết bao nhiêu. Cha sở xứ Kim Sơn nghe biết hoàn cảnh đáng thương của hai cha này liền lo liệu cho họ ăn uống và đem họ đến nhà ông Bát Biên, một người ngoại đạo làm Thủ Chỉ làng Qui Hậu. Cha sở tin cậy ông ta vì trước ngài đã từng làm ơn cho ông, và ông ta đối với ngài cũng rất nghĩa thiết. Bát Biên bằng lòng nhận săn sóc hai đấng và hai thầy giảng. Ông ta cư xử với các ngài rất lịch sự hẳn hoi. Nhưng lòng tham lam của con người không biết đâu mà lường được. Ông ta bị cám dỗ nặng nề vì phần thưởng to lớn các quan hứa sẽ thưởng nếu ai bắt được hai vị này. Tám ngày sau ông ta không thể kìm hãm lòng ham muốn được thăng chức phẩm nữa, nên đi tố cáo với các quan, hẹn ngày và nơi để bắt cả hai người này. Ngày 18-6-1838, ông ta lập mưu giả vờ tỏ lòng thương nói với hai đấng: "Cứ theo các tin tức tôi nghe được thì hai Cụ ở đây nguy hiểm lắm. Cho nên tôi sẽ đưa Cụ Hiền đi trước sang nơi khác chắc hơn, rồi sẽ trở về đưa Cụ Tuần đi sau".
Hai đấng cứ tin là thật vì cho đến lúc đó hai ngài vẫ chưa biết hắn đã phản bội. Cha Hiền và hai thầy giúp ngài liền theo ông ta xuống thuyền đến chỗ hẹn, nơi các quan và lính đã chờ sẵn ở đó. Tên phản bội nộp ngài cho họ nhưng lại cố ý để cho hai thầy được trốn thoát sợ họ khai với quan là đã để cho họ trú ẩn cả tuần lễ qua có thể làm liên lụy đến hắn. Sau đó ông lại trở về nhà để bắt Cha Tuần nộp cho quan theo đúng kế hoạch đã định trước. Ðể tưởng thưởng, vua đã thăng chức và cho hắn 100 lạng bạc.
Sau đó hai ngài được dẫn về đình làng bên cạnh nghỉ ngơi. Hai vị thánh lợi dụng những giây phút yên tịnh đó để giải tội cho nhau và khuyến khích nhau chịu đựng khổ cực chết chóc sẽ dành cho họ vì tình yêu Thiên Chúa. Ngày hôm sau, các quan bắt cả hai người về Ninh Bình. Chúng nhốt Cha Hiền vào cũi tre, còn Cha Tuần thì chúng đóng gông nặng nề quanh cổ ngài. Ở đó được hai ngày thì quan tổng đốc đem hai vị về Nam Ðịnh. Họ tới Nam Ðịnh ngày 22 tháng 6 giữa rừng lính trang bị súng ống và giữa tiếng hò hét vui mừng của quân thù.
Bị giam trong cũi chỗ xa xôi nhất của nhà tù Nam Ðịnh, Cha Hiền đã phải chịu khổ cực khủng khiếp vì đói khát và nóng nực. Có lẽ ngài đã phải chết rục tù nếu Thiên Chúa không soi sáng cho ông Dương, một Kitô hữu giàu có nhưng rất tốt lành, đến chăm sóc ngài. Ông đút lót quân lính và bọn gác tù mới được vào chăm sóc ngài hằng ngày. Chính ông đã phải tự tay giúp ngài ăn uống, vì ngài đã già lão tuổi tác mà phải chịu bao nhiêu cực khổ nên mắc chứng bệnh như người bất toại không đưa tay lên mà ăn được nữa.
Quan lớn Lê Văn Ðức thường bắt ngài ra trước công đường nhiều lần để tra hỏi tên tuổi ngài, lý do đến miền Bắc Việt và đến được bao lâu... Ngài trả lời rất khôn ngoan và cẩn thận để tránh không nói điều gì có thể làm liên lụy đến những người khác. Khi các quan hỏi điều gì ngài không muốn trả lời thì ngài nói tiếng Tây Ban Nha. Trước sau như một ngài chỉ nói đi nói lại có một câu: "Tôi là thầy cả trong đạo, đã sang nước này để giảng đạo mà thôi. Tôi nhất định giữ đạo Thiên Chúa cho đến cùng nên tôi sẵn lòng chịu chết vì đạo ấy".
Quan lớn cố tra hỏi nhất là về chỗ ẩn núp của Cha Hermosilla và hai cha khác vì ông đang nhắm bắt họ cho bằng được. Quan dùng những lời ngon ngọt dụ dỗ hứa tha ngài và cho ngài làm thông dịch viên bên cạnh vua nếu ngài chịu tiết lộ. Thật quan Lê Văn Ðức chẳng hiểu tí gì về ngài cả nên mới dụ dỗ như vậy. Ngài yếu đuối về phần xác nhưng đức tin và ý chí ngài lại rất mạnh mẽ. Ngài đã không do dự trả lời quan lớn: "Từ ngày cấm đạo chúng tôi đã xa nhau và ai nấy cố sức ẩn núp. Ai mà biết được họ ở đâu bây giờ? Còn chức vị thông dịch cho vua thì tôi chẳng ham. Tôi đến đây không phải để phục vụ cho những ông vua của thế gian này, nhưng để giảng đạo Ðức Chúa Trời duy nhất mà thôi. Thưa quan, tôi không thể nói cho quan nghe các cố Tây ở đâu, nhưng tôi lại biết rất rõ nơi có thể kiếm thấy hai Ðức Cha Y và Minh". (Ngài ám chỉ hai Ðức Cha đang bị tù tại Nam Ðịnh).
Các quan liền hỏi: "Ngươi biết những người này chứ? Ngươi có muốn gặp mặt họ không?" Ngài trả lời: "Tôi quen họ lắm và tôi sẽ rất mừng được gặp họ nếu quan lớn cho phép tôi".
Quan lớn vui lòng cho ngài được toại nguyện nên truyền lệnh đem hai đức cha, cũng bị giam trong cũi như ngài, và cho phép họ được gặp gỡ nhau một tiếng đồng hồ. Chuyện được kể lại là Ðức Cha Delgado nói rất ít vì ngài đang bị bệnh rất nặng. Ngài nghe hai vị nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng nói vài câu. Ðặc biệt có một lúc ngài lớn tiếng nói bằng tiếng An Nam với Cha Hiền: "Này, cha Bề Trên, cha muốn chịu xử trảm chứ?"
Cha Hiền trả lời: "Dĩ nhiên, không do dự".
Các quan kinh ngạc khi nghe các ngài nói chuyện về cái chết sắp đến của họ một cách bình tĩnh mà còn hoan hỉ nữa.
Hai ngày sau quan cho điệu Cha Hiền ra trước công đường, còn dám đề nghị ngài khóa quá nữa, dẫn dụ cho ngài hy vọng là nếu ngài chịu khóa quá thì ông sẽ xin vua tha ngài ra và cho ngài về nước Tây Ban Nha, nhưng trái lại nếu ngài từ chối thì chắc chắn sẽ phải chết. Phẫn nộ vì lời dụ dỗ như vậy, ngài đanh thép trả lời: "Quan nên nhớ là tôi sẽ không bao giờ khóa quá. Còn việc trở về đất nước tôi thì đó không phải là điều tôi mong ước. Ðến Bắc Kỳ, tôi đã sẵn sàng đổ máu cho đạo Ðức Chúa Trời, và làm chứng trước mặt mọi người là chỉ có đạo Ðức Chúa Trời mới là đạo thật. Bởi thế tôi rất lấy làm vui mừng khi đạt được điều tôi hằng khao khát. Quan hãy tin chắc đi là tôi sẽ không bao giờ khóa quá".
Quan thấy có đợi ngài bỏ đạo cũng vô ích, liền truyền đem ngài trở lại nhà tù và viết án tâu vua xử trảm ngài. Ngày 18 tháng 7, các quan tỉnh Nam Ðịnh nhận được chiếu chỉ của vua truyền xử trảm ngài. Ngày 24 tháng 7, các quan thử dụ dỗ ngài bỏ đạo lần cuối cùng: "Chốc nữa ngươi sẽ bị xử tử nếu ngươi không chịu khóa quá. Còn nếu ngươi chịu thì ngươi sẽ được tha về Âu Châu".
Vị anh hùng tử đạo trả lời vắn tắt và cương quyết như sau: "Ta sẽ không chịu khóa quá. Chém đầu ta đi".
Tức khắc quan ra lệnh sửa soạn cuộc xử trảm. Trong khi chúng sửa soạn diễn hành đến chỗ xử tử, ngài bị một số người bàng quang trong đám đông túm vào chế nhạo. Ðám trẻ con thì thò tay vào cũi thi nhau kéo giật tứ phía bộ râu dài của ngài. Ngài chịu đựng không kêu than la rầy chúng.
Khoảng hai giờ trưa thì cuộc diễn hành đến pháp trường nơi ngài sắp sửa hoàn tất của lễ hiến tế. Quân lính lôi ngài ra khỏi cũi và đặt ngài ngồi vào chiếc chiếu rách nát mà ngài thường nằm ngủ trong suốt thời gian bị bắt. Ngài đứng cũng không vững vì chúng đã bỏ ngài đói gần chết. Chân ngài bị tê gần như liệt vì phải ngồi mãi một tư thế không được thoải mái, nhưng tâm trí ngài lại rất tỉnh táo và vui sướng. Tại đó vị thánh tử đạo đã dâng lên Thiên Chúa của lễ hy sinh như trên bàn thờ. Ngài sấp mình say sưa cảm tạ Chúa đã ban cho ngài hồng ân được đổ máu mình ra để làm chứng cho đức tin chân thật mà ngài đã rao giảng tại Bắc Kỳ suốt 32 năm trời. Trong khi ngài đang chìm đắm trong lời nguyện, quan lớn đưa tay ra dấu, đao phủ thủ liền đưa linh hồn vị anh hùng tử đạo về trời. Một tên lính tung đầu vị anh hùng lên trời ba lần như thông lệ mọi khi. Trong khi đó hằng trăm Kitô hữu và cả những người ngoại đạo tranh nhau sờ tay trên thân xác không đầu của ngài. Dù các quan đã cố gắng ngăn cản, họ cũng mặc kệ, tranh nhau lấy di tích của ngài. Người thì lấy vải hoặc giấy thấm máu đào của ngài, người thì lấy cỏ hoặc đất mà máu ngài đã chảy xuống, người thì lấy quần áo, chiếu, hoặc cũi và cố gắng gìn giữ những đồ quý trọng đó vì lòng kính mến ngài. Thấy quang cảnh như vậy, các quan vừa hổ thẹn vừa giận dữ liền truyền lệnh tức khắc đào mộ chôn xác ngài ngay tại chỗ. Một Kitô hữu đã chuẩn bị sẵn mang theo một cỗ quan tài, liền đút lót các quan cho đặt xác ngài vào quan tài rồi mới chôn. Còn cái đầu của ngài thì quan ra lệnh treo lên cao nơi công cộng ba ngày để mọi người qua lại có thể nhìn thấy, rồi sau đó quăng xuống sông. Giáo dân đã cố công tìm vớt để chôn chung với xác ngài nhưng tìm hoài không bao giờ thấy. Vài tháng sau họ đem quan tài về táng tại nhà tràng Lục Thủy Hạ. Nhưng sau này xương thánh ngài được mang về nhà thờ Phú Nhai, làng Bùi Chu, có cả muỗm và nĩa ngài thường dùng tại Bắc Kỳ. Vị anh hùng đã tử vì đạo ngày 24 tháng 7, 1838, tại Nam Ðịnh, thọ 63 tuổi. Sau này Ðức Giáo Hoàng Leo XIII đã phong Á Thánh cho ngài.
Đã đọc: 1004 |