 Ðaminh TRẠCH (Ðoài), sinh năm 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Ðịnh, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 18-9-1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng,phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 18-9.
Thánh Ðominicô Trạch, vị thánh tử đạo thứ 26 trong thời bắt đạo của Vua Minh Mệnh, được phong Á Thánh do Ðức Giáo Hoàng Leo XIII.
Ngài sinh năm 1772 tại họ Ngoại Vối, tỉnh Nam Ðịnh. Ngài vào chủng viện tu hồi còn bé và được tiếng là hiền lành nhân đức. Ngài chịu chức linh mục năm 31 tuổi nhưng ngài lại ước ao sống theo lối sống của nhà dòng nên sau đó ngài xin vào tu dòng Ða Minh và được khấn dòng ngày 18-6-1825.
Tất cả những người làm chứng trong án phong Á Thánh cho ngài đều khen ngài rất siêng năng giữ các lề luật nhà dòng kỹ càng. Bề trên sai ngài về coi xứ Quần Cống, rồi sau đó coi xứ Lục Thủy Thượng. Ngài đúng là một chủ chiên thật, luôn luôn cẩn mật chăm sóc đoàn chiên mình. Dù rất bận rộn trong công việc chăm sóc giáo dân và giảng dậy cho những người tân tòng, ngài cũng vẫn cố gắng coi sóc chủng sinh của ngài cẩn thận. Ngài yên ủi, khuyên bảo và giục giã họ năng chịu các phép bí tích và giữ các lề luật xứng với bậc tu trì của mình. Chính ngài sống một đời sống gương mẫu, siêng năng, đạo đức và hãm mình. Người ta nói ngài không bao giờ uống rượu.
Dù bị bệnh lao đã lâu năm, ngài vẫn làm việc không ngừng cho đến khi bị những kẻ ngoại giáo ở làng Ngọc Cục bắt năm 1839. Giáo dân của ngài đóng góp được 200 quan tiền để đút lót quan quyền nên ngài được thả về. Nhưng từ đó ngài phải bỏ xứ Lục Thủy Thượng để đi ẩn ở nhà ông lang Thiện tại Thôn Bắc, làng Trà Lũ, và sau đó ở nhà ông trùm Bảo cùng làng. Vì ngài phải ẩn ở những nơi ẩm thấp thiếu dinh dưỡng cộng thêm những công việc mục vụ thất thường trong thời cấm đạo, sức khỏe của ngài càng ngày càng yếu hơn. Mùa Xuân năm 1840 ngài đành phải về dưỡng bệnh tại làng Ngưỡng Nhân với hy vọng sức khỏe được bình phục.
Không phải ngài không muốn chết vì đạo, nhưng trái lại ngài còn nhiệt thành ước ao được chết vì đạo. Trong một cuộc đàm thoại quanh quẩn về việc bách hại Kitô hữu, có lần ngài đã nói: "Tôi lấy làm buồn và xấu hổ cho vùng mình đã không cung cấp được vị tử đạo nào caû".
Các thầy già cũng nói thêm vào: "Nếu ai trong chúng ta mà bị bắt bây giờ thì chắc chắn sẽ bị hành hạ dã man hơn bao giờ hết".
Ngài trả lời: "Nếu tôi bị bắt, họ muốn làm gì tôi thì làm".
Làng Ngưỡng Nhân từ trước vẫn được bình yên vô sự, nhưng đột nhiên chỉ vài ngày sau khi ngài đến, cai tổng Nhật đã đem dân phu đến vây chung quanh làng lục soát tất cả mọi nhà để bắt các vị linh mục. Lúc bấy giờ có tất cả 4 vị linh mục đang ẩn trốn trong làng. Ba vị may mắn thoát được, còn Cha Trạch vì sức khỏe đang yếu phải có người khiêng ngài trên võng mà chạy nên bị chậm trễ. Khi thoát ra khỏi làng, ngài tính về làng Tứ Liêu để ẩn, nhưng vừa mới đến cánh đồng làng Hoành Tam thì bị bắt ngày 11-4-1840. Chúng bắt ngài đeo gông trên cổ và giải ngài về làng, rồi sau đó đưa ngài về phủ Xuân Tràng. Quan phủ chẳng nói chẳng rằng đóng nọc chân tay ngài giữa sân hơn một tiếng đồng hồ rồi mới giam ngài trong tù.
Lúc bấy giờ trong nhà tù cũng có rất nhiều Kitô hữu bị bắt giam ở đó. Họ thấy ngài thì mừng rỡ khôn xiết, đón nhận ngài như một vị thiên thần trên trời Chúa gửi đến. Tất cả liền xin ngài giải tội cho họ. Dù ngài đang bị bệnh, sức khỏe yếu đuối, ngài cũng cố ngồi giải tội cho họ và khuyên bảo họ giữ vững đức tin, chịu những sự khốn khó cho nên, chứ đừng ngã lòng mà bỏ đạo. Ngài đọc kinh nguyện ngắm hằng ngày, nét mặt luôn luôn vui tươi và ngài thường nói với họ rằng: "Tôi đau yếu phần xác thật, song tôi đã bị bắt vì đạo thì tôi chẳng sợ, cũng chẳng dám phàn nàn than trách điều gì".
Các quan lại giải ngài về tỉnh Nam Ðịnh và giam ngay vào ngục thất bất kể bệnh tật của ngài. Vị thánh đáng kính không những phải chịu đau khổ về phần xác do bệnh tật, tù đầy, mà còn phải chịu những đau đớn trong lòng khi thấy những Kitô hữu đã cả lòng bỏ đạo. Ngài âm thầm chịu đựng, đọc kinh lần hạt, nguyện ngắm, an ủi các bổn đạo, giải tội cho Thầy Toán và các bổn đạo ở ngoài lẻn vào tù xưng tội với ngài. Ngài xin họ cầu nguyện để ngài được diễm phúc tử vì đạo.
Tất cả các quan, đứng đầu là quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh, dùng bạo lực bắt ép ngài dẵm lên cây thánh giá, nhưng lần nào cũng bị thất bại. Vị anh hùng tử đạo dù yếu phần xác nhưng linh hồn lại được Thiên Chúa toàn năng tăng sức mạnh. Ngài đã bị điệu ra trước quan án biết bao nhiêu lần với những lời dụ dỗ tha ngài về nếu chịu bỏ đạo, hoặc những lời đe dọa tra tấn hành hạ dữ tợn, và mỗi lần mang ngài về nhà giam, chúng lại thêm một miếng sắt nặng vào gông cổ ngài để cho nó nặng thêm và làm cho ngài không đi đứng nổi.
Trong những lần bị điệu ra quan án, lần thứ ba là đáng kể nhất vì lần đó ngài đối đáp với các quan rất mạnh bạo và chịu đau đớn hơn hết. Trịnh Quang Khanh ra mặt rất uy nghiêm và rất hung dữ nói với ngài: "Ngươi xem cây thánh giá đó, quá khóa đi, không thì ngươi chết".
Vị linh mục khả kính chầm chậm và nghiêm trang tiến tới, các quan hồi hộp vui mừng chờ đợi tưởng ngài sẽ quá khóa, ai dè đến gần cây thánh giá ngài liền quì gối xuống thờ lạy và hôn kính cây thánh giá, đoạn quay về phía các quan và thưa: "Thưa các quan, cây thánh giá này là hình ảnh cây thánh giá Chúa tôi chịu chết xưa, là biểu hiệu đức tin và đạo Giatô, nếu các quan muốn sống đời đời, các quan cũng phải thờ lạy cây thánh giá này. Còn về phần tôi, tôi chỉ thờ lạy cây thánh giá này thôi, tôi thà chết chứ chẳng thà dẫm dưới chân tôi".
Các quan nghe nói thế thì giận dữ phát điên lên quên cả chức phận của mình mà nhào tới đấm đá ngài túi bụi cho hả cơn giận. Sau đó các quan mới ra lệnh cho quân lính cầm hai đầu gông nâng ngài lên và khiêng ngài qua cây thánh giá để làm sao cho chân ngài đụng vào cây thánh giá, nhưng ngài co rút chân lên. Dù quân lính dùng roi đánh vào hai chân ngài dữ tợn thế nào đi nữa cũng không làm sao bắt ngài thò chân xuống được. Các quan thất vọng vô cùng vì không làm sao bắt ngài bỏ đạo được liền bắt giam ngài trong ngục như trước. Nhưng lúc đó thì ngài cũng đã mệt đờ cả người, dở sống dở chết vì những cực hình.
Một lần khác các quan thấy dùng những cực hình cũng vô ích nên dụ dỗ ngài bằng những lời ngon ngọt hứa hẹn: "Ngươi bỏ đạo đi thì sẽ được về nhà bằng an".
Vị linh mục đáng kính trả lời: "Lạy quan lớn, tôi chỉ muốn chết mà thôi".
Bấy giờ các quan thấy không còn cách nào làm cho vị linh mục bệnh tật yếu đuối này phải sờn lòng bỏ đạo được, mới quyết định viết án đệ trình lên vua xét xử.
Về nhà giam, ngài viết thư cho Cha Tuyên và Cha Năng, trong lá thư ngài gọi hai cha là bác xưng cháu để tránh phiền phức cho họ:
"Kính gửi tới hai bác Tuyên và Năng trăm lời chào. Cháu vẫn thường nghĩ tới hai bác luôn, nên cháu viết lá thư này để xin hai bác thương cầu nguyện cho đứa cháu của hai bác được nhận cái diễm phúc Chúa đã dành cho cháu. Cháu van nài hai bác hãy nhớ đến cháu và giúp cháu mỗi lần hai bác dâng Thánh Lễ. Cảm tạ hồng ơn Thiên Chúa đã gìn giữ cháu nên cháu mới có thể đi được 7 chặng, tức là bẩy nơi cháu làm tù nhân, và đây chắc là chặng cuối cùng của cháu đó. Cháu chỉ ước ao sao ngày cuối cùng trước ngày trảm quyết đến thật mau. Cháu bị đau ốm từ ngày mới tới đây cho đến bây giờ. Cháu thường bị hành hạ luôn luôn, và chúng còn dùng bạo lực cố bắt ép cháu phải quá khóa. Cháu bị xử tàn ác hơn các bổn đạo khác rất nhiều. Quan lớn đã thử đủ hết mọi cách có thể tưởng tượng để hành hạ cháu và bắt cháu quá khóa và khai chỗ ẩn của Cha Hermosilla, nhưng tất cả đều vô ích. Quan lớn còn bắt cả những cai tù phải thuyết phục được cháu và thăm dò cháu tin tức này. Chúng cũng phải thất bại. Thấy vậy quan lớn cũng đành chịu phải viết án xử trảm cháu..."
Rồi ngài kể rằng trong 7 nơi bị tù ngài đã tiêu hết 400 quan tiền cho ngài và cho 4 giáo dân khác trong tù do người ta bố thí. Ðoạn ngài viết tiếp:
"Ở đây có một anh đội trưởng, ngoại giáo nhưng cưới vợ có đạo, muốn học theo đạo. Cháu van nài hai bác thương chú ý đến chúng, vì cả vợ lẫn chồng đều có công giúp đỡ các bổn đạo đang bị tù. Sau khi việc của cháu được sắp xếp, ông đội trưởng này tính bỏ nghề lính để về nhà giữ đạo. Cháu xin các bác đừng bỏ bê ông ta. Hai bác làm ơn viết thư cho Cha Hermosilla, kể cho ngài nghe tất cả những gì cháu đã nói. Xin ngài tha cho cháu tất cả những lỗi luật nhà dòng cháu đã phạm. Cháu chấp nhận bất cứ việc đền tội nào ngài ban ra. Cháu xin lỗi về những khoản chi phí do việc tù đầy của cháu gây ra. Cháu không biết làm cách nào để có thể trả được món nợ đó. Xin hai bác cũng làm ơn viết cho Cha Jimeno và Cha Marti xin các ngài cầu nguyện cho cháu để cháu không bị xét xử là không xứng đáng đủ để tham phần vào ơn thánh cao cả dành cho các Giám Mục (những vị tử vì đạo) của chúng ta. Cuối cùng cháu cũng xin sự tha thứ của hai bác và của bất cứ những ai cháu đã làm mất lòng mà không biết".
Ngày 18-9-1840, các quan nhận được chiếu chỉ của vua truyền trảm quyết ngài. Ngay ngày hôm đó quan lớn truyền đem ngài đến và dụ dỗ ngài khóa quá lần cuối cùng: "Dù đã có chiếu chỉ của vua truyền trảm quyết ngươi, nhưng nếu ngươi chịu khóa quá thì ta sẽ tâu vua tha cho".
Nhưng ngài vẫn cứ một mực thưa: "Vua đã truyền cho tôi phải chém thì tôi xin vui lòng chịu chết vì đạo Thiên Chúa, chứ khóa quá thì tôi nhất định không chịu".
Khi thấy quân lính vào bắt đem đi trảm quyết, ngài mừng rỡ đi từ giã Cha Ngân và Cha Nghi, thuộc về địa phận Tây Ký cũng bị giam chung với ngài và sau này cả hai cha cũng đều tử vì đạo. Ngài nói với hai cha: "Hai cha nghỉ lại bằng an, tôi xin đi trước".
Nói đoạn ngài điềm tĩnh đi theo quân lính đến pháp trường, và có nhiều người theo xem rất đông. Pháp trường rộng khoảng 7 mẫu là nơi mà máu của biết bao nhiêu vị anh hùng tử đạo đã từng đổ ra. Tới pháp trường, quân lính, gươm trong tay, dàn thành từng hàng vây chung quanh nạn nhân đã yếu ớt nhưng sắp sửa anh dũng đóng dấu đức tin bằng máu đào của mình. Quân lính bắt đầu tháo gông cho ngài. Ngài liền quì xuống phó linh hồn trong tay Chúa, và tạ ơn Chúa đã ban cho ngài diễm phúc được dâng lên cho Chúa một minh chứng tình yêu tuyệt vời của ngài bằng máu đào. Khi được lệnh của quan lớn, từ trên lưng voi, một lưỡi gươm vụt xuống đưa linh hồn vị thánh tử đạo về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên nước trời. Các bổn đạo tranh nhau lấy khăn thấm máu đào của ngài và thu góp những gì thuộc về ngài. Họ đặt đầu và xác ngài vào quan tài đã sửa soạn trước rồi an táng ngài gần đó. Vài tháng sau, Vua Minh Mệnh băng hà, họ liền đưa xác ngài về táng tại nhà tràng Lục Thủy Hạ. Ngài thọ 68 tuổi.
Đã đọc: 752 |