 Jean-Charles CORNAY Tân, sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục, Hội Thừa Sai Paris, xử lăng trì ngày 20-9-1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 20-9.
Người duy nhất trong các anh hùng tử đạo Việt Nam áp dụng một tập tục có từ thời các vị tử đạo xa xưa, là lấy danh nghĩa mình xưng đạo để xin xá giải cho một người đã chối đạo. Thừa Sai Cornay đã viết một lá thư bằng tiếng Latinh xin đức cha nhận lại người cộng tác cũ của mình. Thư viết như sau: "Thưa đức cha, mặc dù lời giới thiệu của con không đáng chú ý, nhưng con dám lấy danh nghĩa là người đã xưng đức tin bằng máu đào đã đổ ra, bắt chước tập tục của các anh hùng tử đạo xa xưa viết thư xin ân xá cho những người đã chối đạo. Vậy con xin đức cha bỏ qua lỗi lầm của người giúp con là Kim, xin nhận vào sổ các thầy giảng sau khi đã trả bài về các sách kẻ giảng. Con tin rằng khi được trở về như người con phung phá, thầy ấy sẽ chuộc được lỗi xưa bằng một đời sống gương mẫu. Con mong đức cha khấng ban".
Cha Cornay sinh ngày 12-3-1809 tại Loudun thuộc giáo phận Poitiers bên Pháp. Cha mẹ ngài rất giầu và cũng rất đạo đức. Trong khi theo học tại học viện ở Saumur và Montmorillon, cậu Cornay rất tiến bộ trong việc học và được mọi người quí mến vì tính hiền lành. Năm 1827 cậu nghe tiếng Chúa gọi dâng mình đi tu trong chủng viện địa phận Poitiers. Sau ba năm thầy được phong chức Năm và bước thêm một bước quyết liệt khác là theo Chúa đi giảng đạo cho dân ngoại. Thầy xin gia nhập chủng viện thừa sai Paris. Ðể thử xem mình có sức chịu đựng những khổ sở mà các thừa sai phải chịu ở nước người xa lạ, đang đêm trời mưa to gió lớn, có sấm chớp vang trời, Thầy Cornay đi ra ngoài đồng ruộng tưởng chừng như đi vào nơi xa xôi hẻo lánh. Thầy tập ngủ trên một phiến đá và khi mặt trời mọc, thầy vào nhà thờ giảng về Ðức Chúa Trời rồi mới về nhà. Thầy ở chủng viện Paris học thêm và chuẩn bị chịu chức Sáu. Sau khi chịu chức Sáu, thầy được sai đi truyền giáo ở Trung Hoa. Vì đang có bắt đạo ở Trung Hoa nên đường đi vào nội địa phải qua Bắc Việt để theo đường bộ lên Tứ Xuyên. Ngày 12-7-1832, thầy cùng với 4 thừa sai khác đặt chân lên đất Bắc Việt. Phần thầy, thầy lên Sơn Tây để chờ người dẫn sang Trung Hoa. Dân Công Giáo thấy có cố Tây gióc tóc đuôi xam như người Tầu mà không làm lễ thì gọi là cố Sáu. Vì người đưa rước bị mắc bệnh mà chết, và đức cha địa phận Tứ Xuyên không liệu cách khác được thì cho phép thầy ở lại giúp Việt Nam. Thầy về Hà Nội chịu chức linh mục ngày 20-4-1834. Từ đây thầy trang phục như người Việt và mang tên là Cố Tân. Cha Tân được bề trên sai trở lại Sơn Tây làm việc và học thêm tiếng Việt tại xứ Bầu Nọ. Trong thời kỳ cấm cách, quan quân lùng bắt các thừa sai, tại đây vẫn tương đối là một nơi an toàn. Nhưng thánh ý Chúa đã định cho cha được đổ máu ra để củng cố đức tin giáo dân Việt. Tại vùng này, có tướng giặc tên là Ðức bị bắt, muốn chuộc tội, hắn cho vợ giả làm người học đạo để dò la chỗ ở của đạo trưởng. Khi biết chắc Bầu Nọ có đạo trưởng Tây thì báo cho quan.
Sáng sớm ngày thứ ba 20-7-1837 khi Cha Cornay đi làm lễ thì có tin báo quan sai 1.500 lính vây làng. Cha Cornay thuật lại việc bị bắt trong thơ gửi cho cha mẹ như sau: "Bấy giờ vì không liệu cách nào mà trốn được nên giáo dân mang con đi ẩn trong một khóm tre rậm. Lính đi qua đi lại khám xét nhưng không biết được. Ðến chiều khoảng 4 giờ lính đến gần bụi dùng giáo cán dài mà đâm vào. Thấy vậy con ra nộp mình cho họ bắt". Trong khi cố đi trốn thì dân làng bị tập trung lại để điểm danh. Trong đó, có hai thầy già và một học trò khác cũng bị bắt và sau được phúc tử đạo. Quan muốn biết nơi ẩn trốn của linh mục nên đánh đòn tra tấn lý trưởng tên là Cuộc. Vì đau quá ông đã phải thú nhận có đạo trưởng trong làng và đã đi ẩn ở bụi tre.
Ngay sau khi bị bắt, Cố Tân phải mang gông và khi họ làm xong cũi tre thì giam ngài vào trong cũi. Cố tỏ ra vui vẻ và ca hát luôn. Vì làng chứa đạo trưởng nên lính tráng mặc sức phá phách cướp bóc cho tới chiều tối mới thôi. Các đàn ông trong làng được đưa đến một chỗ cao ráo để ngủ đêm, còn Cha Cornay được cho một cái chiếu rách, gối đầu trên gông mà ngủ. Nhưng cái đêm dài hãi hùng không cho cố nhắm mắt được, mà phải nhìn bầu trời đầy sao chờ sáng, chờ những cái khắc nghiệt của quân lính Việt Nam.
Sáng hôm sau 21-4, quan hỏi xem có còn thừa sai nào khác và các đồ đạo dấu ở đâu. Thực ra họ đã tịch thu được tới 20 gánh đồ đạo và sách. Quan lãnh binh đã lợi dụng cơ hội để lấy phần cho mình. Họ chỉ mang hai gánh về nộp cho quan tỉnh. Cha Cornay đã xin lại được 6 cuốn sách, ảnh thánh giá. Cầm từng cuốn sách, quan hỏi là sách nói gì. Cha Cornay phải giải thích. Sau đó họ mang tới một cái cũi tre để khiêng cha đi như một tên tướng giặc. Có 8 người khiêng. Ðoàn người đi về tỉnh. Buổi tối họ dừng lại ngủ. Cha Cornay trải qua đêm thứ hai ngoài trời. Cũng trong đêm này, cha biết được là quan đi bắt tướng giặc, nhưng giặc đã trốn chạy. Ngày 22-6, đoàn quân mới về đến tỉnh. Cha Cornay đã coi như mình được danh dự, biến cũi thành ngai có 8 người hầu cận khiêng, trước có 500 lính mở đường, sau có quan trên võng cáng và 10 giáo dân bị trói mang gông. Hai bên đường có vô số người ra xem.
Dinh của quan tổng đốc xứ Ðoài kiêm nhiệm hai tỉnh Hưng Tuyên, có lũy cao và hào chung quanh. Bên trong có đủ các dẫy nhà: nhà quan, nhà lính, tòa án, nhà kho... Quan tổng đốc đến xem xét rồi nói rằng trong vài ngày nữa sẽ giải về kinh để vua xét xử. Quan lớn lui đi thì các quan nhỏ và trẻ con bao vây hỏi han Cha Cornay đủ mọi câu, nhưng cha không trả lời. Có người tra vấn đứng bên cạnh, trả lời các câu hỏi tò mò của đám người chưa bao giờ nhìn mặt một người Tây. Ðến gần bữa ăn, họ bắt cha hát rồi mới cho ăn. Cha đã hát 4 câu trong ca vịnh Ðức Trinh Nữ. Tại tỉnh, họ chuyển cha sang một cũi khác bằng gỗ và bị xích cổ chân. Bề cao và rộng của cũi là 4 thước chân và chiều dài là 5 thước chân. Trên và dưới có ván, chung quanh có song gỗ rất dầỵ Tuy thế vẫn không dài đủ cho một người Tây có thể nằm thoải mái. Cha rất khổ cực, cộng thêm sức khoẻ yếu kém. Tuy nhiên quan để tự do cho người dân được đến gần. Có một bà dòng đến săn sóc và nhắn các tin. Quan còn cho giấy để cha viết tường thuật, và được phép gửi về gia đình. Sáng ngày hôm sau, quan lãnh binh, người đã bắt cha, đến với một địa bàn và thánh giá có chạm trổ để hỏi han. Cha cắt nghĩa cách xử dụng la bàn và xin thánh giá lại để treo vào cũi. Cha cũng ráng nói cho rõ ràng tiếng Việt cắt nghĩa các mầu nhiệm trong đạo, nhất là về cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Quan lãnh binh tên là Tài còn hỏi các thừa sai làm những việc gì. Cha cắt nghĩa việc giảng đạo và 10 điều răn, về bí tích, sự tha tộị... Sau đó cha hỏi lại quan lãnh binh: "Khi chúng tôi giảng đạo như thế, có phải là chúng tôi xúi dục nổi loạn không?"
- "Không, đạo lý này rất tốt, không phải vì đạo mà ông bị bắt, nhưng vì có lệnh cấm của vua và vua không muốn ông ở lại trong nước".
Một câu hỏi hiếu kỳ khác được nhắc lại luôn là cha có vợ có con không. Cha trả lời ngay là không và còn nói lên những cái lợi vì ở độc thân.
Ngày 24-7 quan lãnh binh đến nói với cha là quan tỉnh đã tha cho cha và dân làng, trả lại các đồ để cha sửa soạn về lại Áo Môn (Macao) với giá 100 lạng bạc. Giá này được kể là phải chăng, vì ngay lúc bắt quan lãnh binh đã đòi 1.000 lượng. Nhân tiện, quan hỏi thêm các cha làm sao sinh sống. Cha viết một lá thư cho dân làng trước mặt quan. Sau khi chào thăm họ cha nói đến nỗi vui mừng được chịu bắt bớ và khổ cực vì Chúa. Cha bày tỏ nỗi lo lắng về những người khác bị bắt và lời đề nghị của quan 100 lạng bạc để tha họ. Cha xin giáo dân vay mượn để giúp những người này được tự do. Riêng phần cha, cha muốn được chịu khổ vì Chúa.
Ngày Chúa Nhật 25-7, quan lại hỏi về gia đình, quê hương, phương thế đến nước này. Họ phiên âm tên cha là Cao-Lang-Nê. Các quan đã làm một tờ trình lên vua kể lại việc phát giác và bắt được một lãnh tụ nổi loạn cùng với nhiều đồ đạo, và 10 người đồng đảng. Tờ trình cũng kể công lao của quan án và quan lãnh binh và nhất là của tên tù tố giác. Mười bốn ngày sau bộ hình trả lời rằng vua giao việc xét xử cho quan sở tại.
Lần thứ nhất quan thẩm vấn ngày 20-7. Quan buộc tội ba người tên là Thiệt, Ba Nhờn và Thạch đã đến hỏi về việc chiến tranh. Quan đe dọa kìm kẹp, roi đòn để bắt Cha Cornay nhận là cố vấn cho bọn phản tặc. Trước những đe dọa và vu cáo, Cha Cornay chỉ nói lên sự thực và sẵn sàng chết hơn là nhận lời vu cáo và nói dối. Cha đã thấy, đã nghe những roi đòn đánh các người cùng bị bắt, thấy họ đánh các thầy giảng. Tiếng kêu của họ làm đau thắt con tim và cha chờ đợi đến lượt mình cũng phải chịu như thế. Hôm ấy cha bị lôi ra khỏi cũi, lột áo và cột vào cọc nhưng rồi buổi thẩm vấn kết thúc, cha không bị tra tấn.
Lần thứ hai vào ngày 11-8, họ mở cũi cho cha và bắt cha đeo vào một cái gông to lớn. Cha bị bắt ép nhận tội làm giặc. Mỗi lần cha phủ nhận là mỗi lần roi đòn quất lên người cha. Họ đe sẽ đánh cho đến chiều và mọi ngày cho đến khi cha thú nhận có làm cho giặc. Sau 50 roi họ cởi trói cho cha, và đẩy vào cũi như trước. Cha hát lên bài Salve Regina và nói với chú Kim rằng cha bị đánh mà không kêu một lời. Mấy ngày liền toàn thân thể cha đau đớn, nhức nhối. Lần ấy cha đã bị đánh bằng roi có nhiều sợi gắn cục chì làm máu chảy ra, theo các vết đòn.
Lần thứ ba xảy ra ngày 29-8. Trước hết quan bắt cha bước qua ảnh, nhưng cha đã quì xuống nhấc lên và ôm hôn cung kính. Vừa giựt lấy ảnh, lính vừa đánh cha ba roi. Sau đó đánh thêm 65 roi nữa rồi đẩy cha vào cũi trở lại. Họ lôi chân ra giữa các song. Cha nghĩ họ sẽ dùng kìm để lôi thịt sống, cha phó thác cho Chúa. Nhưng họ chỉ đặt thánh giá vào chân rồi hỏi có ưng thuận không. Cha đã cương quyết trả lời không bao giờ chiều theo.
Dầu bị tra tấn và khổ cực Cha Cornay còn hỏi cho biết 4 mùa bắt đầu từ ngày nào để ăn chay. Ngày 6-9 quan tỉnh cho họp hội đồng các quan để nghị án. Ngày 20-9 cũng là ngày thứ tư bốn mùa, Cha Cornay ăn chay. Vừa ăn cơm chay xong thì có người lính cầm cờ chạy đến báo tin hôm nay các quan đem cha ra hành quyết.
Trước đó, ngày 14-9, lễ Thánh Giá, Cha Cornay viết lá thư cuối cùng cho cha bạn là Marette, như là chúc thư của vị tử đạo. Cha nghĩ đến niềm vui cuối cùng được dâng hiến mạng sống cho Thiên Chúa. Cha viết: "Xin từ giã bạn, xin chào tất cả các bạn và đức cha khả kính. Nếu vì sơ xuất có làm điều gì các ngài buồn lòng thì xin tha thứ. Nếu cha có cách nào giúp tôi được lĩnh nhận ơn phép giải tội. Nhưng nếu không thể được thì lòng thống hối thay cho việc xưng tội và máu đổ ra thay cho phép xức dầu cuối cùng..."
Lúc ấy Cha Cornay có một mình. Ba trăm lính đến áp giải cha đến pháp trường Năm Mẫu, chung quanh là những lý hình, tay cầm sẵn giáo mác. Ngay trước mặt là người cầm bảng gỗ viết án, đàng sau cha là người lính cầm thanh la thỉnh thoảng đánh lên, và sau cùng là quan giám sát cỡi ngựa. Rất đông người tuốn đến xem vụ xử tử một người Tây Phương. Giáo dân ở gần nghe tin vội chạy đến, nhưng không dám tỏ ra một cử chỉ riêng nào với vị anh hùng tử đạo. Trong đám đông có Cha Thể giải tội cho ngài. Phần ngài, ngài bình tĩnh hát thánh ca và đọc các kinh trong sách. Hai mươi phút sau đoàn người đến một cánh đồng quen xử tội nhân. Họ mang cha ra khỏi cũi về hướng Tây Bắc, các lính làm thành vòng tròn, cắm giáo xuống đất. Quan giám sát ở ngoài vòng và đứng trên đường cái với người xướng và người cầm thanh la. Bảng gỗ viết án như sau: "Tên Tân cũng gọi là Cao Lang Nê, người Phú Lãng Sa thuộc tỉnh Loudun, có tội vì là đạo trưởng tà đạo lén lút trong nước và là lãnh tụ đám nghịch tặc. Sắc lệnh hoàng thượng truyền chặt thành từng mảnh, đầu bêu ba ngày rồi vất xuống sông. Bản án này làm gương cho mọi người khác. Minh Mệnh nguyên niên thứ 18, ngày 21 tuần trăng 8".
Hình phạt lăng trì thường dành cho những người phản nghịch, được áp dụng cho vị thừa sai bị bắt nhận là nghịch tặc nhưng không bao giờ chịu nhận như thế. Lý hình mở nắp cũi, đặt Cha Cornay ngồi xuống đất, rồi bẻ các xích. Có mấy người Công Giáo làm tạp dịch xin vài kỉ niệm của vị tử đạo. Cha nhổ cho họ mấy sợi tóc. Lý hình trói chân tay cha vào 4 cọc, còn đầu thì buộc chắc vào giữa hai cọc. Sau 20 phút sửa soạn, quan ra lệnh lý hình chém đầu khi nghe tiếng thanh la lần thứ nhất, rồi đến các cánh tay, chân và phân thây làm 4 miếng. Lý hình đứng về phía trái ở đầu, ba người khác đứng bên phải ở tay và chân. Chiêng vừa dứt thì thân thể của vị tử đạo cũng được phân cắt ra từng mảnh như lệnh. Lúc ấy là ba giờ trưa. Sau khi chặt xong, lý hình vất mỗi mảnh một phía ra xa. Một người lính mổ bụng lấy gan chia cho các người khác. Họ ăn sống vì tin rằng họ sẽ được thừa hưởng lòng can đảm. Một y sĩ Công Giáo, hai tên lính và một chị dòng lượm nhặt các phần thân thể gói vào khăn. Tuy nhiên dân chúng tranh nhau thấm máu, trái với thói quen là họ sợ máu và xác chết của những tội phạm. Họ kháo nhau: "Máu bên đạo thiêng lắm, đem về nhà thì quỷ không dám quấy phá nữa".
Giáo dân đào đất chôn cha ngay tại chỗ với ý định ban đêm sẽ đánh cắp. Ðầu ngài sau khi bêu ba ngày thì được giao cho một giáo dân tên là Bếp đào và chôn trong nhà thờ Chiêu Ửng. Bẩy tháng sau, 3-7-1838, giáo dân xứ Bách Lộc mới đưa xác về chôn ở Chiêu Ửng, trong gian nhà kho của nhà dòng. Từ đó giáo dân đến viếng gọi là nhà mồ.
Người ta thuật lại hai phép lạ đã xảy ra do Cố Tân cầu bầu. Một lần có quan quân đến lùng bắt, nhà dòng mang đồ đạo lên rừng, khi về nhà thì thấy nhà sáng trưng như có người thắp đèn. Lần khác có đám nhà cháy, các bà chạy ra mộ cố Tân cầu xin thì đám cháy ngưng ngay.
Đã đọc: 594 |