 Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm (Lê Quang Liêm), sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 07-11-1773 tại Ðồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm, phong Chân Phúc ngày 15-4-1906 do Ðức Piô X, kính ngày 07-11.
Thánh Vinh Sơn Liêm sinh tại họ Thôn Ðông, làng Trà Lũ, huyện Phú Nhai, tỉnh Nam Ðịnh, con ông Antôniô và bà Monica Thiếu Ðao. Khi ngài mới sinh ra vì ốm yếu, mẹ ngài đã rửa tội và đặt tên thánh cho ngài là Vinh Sơn. Năm 12 tuổi cậu học tiếng Latinh và chữ Hán. Nhận thấy cậu có tư chất thông minh cha Chính Huy gửi cậu sang du học tại trường Thánh Gioan Latêranô ở Manila khi cậu được 16 tuổi. Sau 5 năm học và luyện tập tu đức cậu xin nhập dòng Ða Minh và được mặc áo dòng ngày 8-9-1753. Một năm sau thầy Liêm cùng với ba thầy Việt Nam khác được tuyên khấn trọng thể. Tiếp tục học thần học 4 năm, thầy được thụ phong linh mục ngày 3-10-1758. Ngay sau đó cha Liêm trở về làm việc cho giáo dân Việt Nam, sau 10 năm xa cách.
Trong 14 năm làm việc tông đồ, cha Liêm lần lượt phụ trách Phú Thái, Quất Lâm, Trung Lao, Lục Thủy Thượng, Trung Lê, Trung Linh, Trung Lao, Kẻ Mết... Tuy không có lệnh lùng bắt các thừa sai, cha Liêm cũng chỉ đi thăm các giáo dân và ban bí tích cho họ vào ban đêm. Thầy Giuse Bình làm chứng như sau: "Trong nhiều năm theo giúp Cha Liêm đi làm phúc, từ khoảng lễ Thánh Ða Minh cho đến mùa Vọng, và từ lễ Tro cho đến lễ Chúa Ba Ngôi, tôi thấy Cha Liêm liên lỉ ngồi tòa giải tội, có khi suốt đêm. Ngài khuyên giảng người có đạo cũng như lương dân về đạo thánh Chúa. Nếu có bất hòa, ngài làm mọi cách để lấy lại hòa thuận và bác ái với nhau. Khi được mời đi kẻ liệt ngài đi ngay. Ngài còn ân cần chỉ bảo các người giúp việc. Ngài rất nổi tiếng về lòng thương kẻ nghèo và lòng bác ái, xin người giầu để cho người nghèo".
Ngày 1-10-1773 cha Liêm rời Thanh Lan để mừng lễ Thánh Ða Minh tại Lương Ðống cùng với hai chú Mathêu và Giuse Binh, cha bị phát giác và bị tố cáo với tên Diên Can, cũng là người đã bắt Cha Gia trước đây. Ðang đêm Diên Can họp gia nhân bạn bè đến làng Lương Ðống. Tảng sáng họ vào nhà ông Nhiêu Nhuệ, nơi cha Liêm trú qua đêm. Cha không kịp cất giấu đồ làm lễ nên bị bắt ngay tại chỗ. Cha còn bị vết thương ở đầu, máu me chảy đầm đìa. Hai chú cũng bị bắt như vậy. Chúng còn đem cha Liêm và hai chú đến làng bên cạnh đang có phiên chợ để người lương ném bùn xỉ vả. Cha Liêm khát nước họ cũng không cho uống. Chiều hôm đó họ dừng tại làng Dâu Hoi và sáng hôm sau nhốt tất cả vào cũi giải lên quan huyện. Ngày 14-10 cha Liêm cùng với cha Gia và các người nhà bị bắt được giải lên Nam Ðịnh và 4 ngày sau các ngài lại bị đưa lên Kinh Ðô.
Trong một lần điều tra, Chúa Trịnh nói riêng với cha Liêm: "Người ngoại quốc kia (tức là Cha Gia) đến xứ chúng ta giảng dậy đạo đã bị cấm vì không biết, còn ngươi là người Annam, sinh tại nước này, sao ngươi dám phạm luật mà ngươi đã biết rất roõ?"
Cha Liêm đáp lại: "Tâu chúa thượng, không phải là tôi không biết luật pháp quốc gia, nhưng vì tôi là một tín hữu Kitô từ thuở bé. Chính Ðức Chúa Trời mới là người tôi phải vâng lời trên hết. Thiên Chúa đã ban cho tôi bao nhiêu ơn lành và đã gọi tôi làm đạo trưởng rao giảng đạo thánh. Không những tôi tin chắc chắn, mà tôi cũng không làm gì lầm lỗi khi rao giảng đạo cho những người đồng hương còn chưa được biết đến. Vì thế tôi sẵn sàng tiếp tục và đó là nguyện vọng duy nhất của tôi".
Nghe như vậy Chúa Trịnh nói với các quan: "Lẽ đương nhiên người ngoại quốc phải chém đầu, còn người An Nam vì bị dụ dỗ có thể chỉ kết án tù chung thân".
Nghe vậy Cha Liêm liền thưa lại: "Nếu chúa thượng kết án người bạn đồng hành của tôi thì cũng phải kết án cả tôi nữa, bởi vì tôi cũng có lỗi như người kia. Còn nếu chúa thượng để tôi sống thì cũng phải nhân nhượng với người kia vì cũng vô tội như tôi vậy. Tôi xin được đối xử đồng đều. Người kia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng, người kia giảng đạo tôi cũng thế. Mọi cái người kia làm tôi cũng làm. Chúa thượng nói người kia là ngoại nhân vi phạm luật lệ quốc gia còn tôi là người trong nước đã cả gan bất tuân... Vì thế tôi có tội hơn người kia. Bởi vậy chúa thượng không thấy là tôi cũng phải chịu hình phạt như vậy sao?"
Dưới áp lực của thân mẫu, của quan huyện và đám hoạn quan, Chúa Trịnh và hội đồng đã kết án hai cha phải xử tử. Trong buổi đọc án, ông Phaolô, một nhân chứng, quả quyết là đã nghe người lương dân nói như sau: "Tại sao Chúa Trời đất không giải cứu các ngài để chúng ta tin theo?"
Người khác cũng bị xử là hai cha con, một người đã nguyền rủa: "Chính vì tại hai ông đạo trưởng mà chúng tôi cũng bị xử tử sớm như vậy". Riêng hai chú theo cha Liêm thì bị kết án lao dịch coi chuồng voi suốt đời, nếu không đem tiền chuộc tội. Quan huyện được thăng thưởng, Diên Can cũng được khen thưởng xứng công. Cha Liêm và Cha Gia bị xử tử tại pháp trường Ðồng Mơ. Một người chứng nói rằng, hôm xử các ngài giáo dân đến đông như kiến vậy, họ ập vào thấm máu các vị tử đạo bất kể bốn hàng lính canh và đánh đập do quan ra lệnh. Thầy già Phaolô Châu nói: "Tôi cầm được chiếc đầu của Cha Gia, nhưng ngay lúc đó 3, 4 người khác xô tôi xuống đất, tôi lại cầm được đầu của cha Liêm và mang ra ngoài".
Bà Ursula quả quyết rằng con gái bà là Luxia đã lấy được tràng hạt của cha Gia và một mảnh áo, nó về nhà người nhuốm đầy máu. Tám người thanh niên Công Giáo được ngầm chỉ định hôm trước đã bảo vệ xác các ngài bỏ vào võng đem đi. Lúc ấy trời đổ mưa dữ dội. Họ lội, mang thi thể các ngài về làng Kẻ Sặt, đem xuống thuyền đưa về chôn cất tại Trung Linh. Một trong 8 người thanh niên lấy xác đi, sau này đã bị nhận diện nên bị bắt giam tù một năm, đồng thời phải nộp một số tiền phạt khá lớn. Cha Vinh Sơn Liêm cùng với Cha Gia đã được Ðức Giáo Hoàng Pio thứ X phong Á Thánh ngày 15-4-1906.
Đã đọc: 578 |