 Phêrô DUMOULIN-BORIE Cao, sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám Mục, Hội Thừa Sai Paris, xử trảm ngày 24-11-1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 24-11.
Ngày 2-7-1838, Ðức Cha Havard trong những ngày trốn chạy cực khổ ở rừng Bạch Bát tỉnh Ninh Bình cảm nghiệm giờ chết đến gần, đã làm tờ di chúc như sau: "Tôi định như thế này: Cha Phêrô Borie sẽ kế vị tôi với tước hiệu Giám Mục Acanthe theo sắc lệnh Tòa Thánh đã ban, trong trường hợp Cha Borie qua đời trước khi được tấn phong thì Cha Retord sẽ kế vị. Ngoài ra tôi cũng quyết định đặt Cha Retord làm cha chính coi phần đàng ngoài của địa phận này cho tới khi đức cha phụ tá và kế vị tôi định thể khác". Ba ngày sau Ðức Cha Havard qua đời, theo sau là hai đức cha địa phận Ðông bị xử tử, để lại toàn thể Bắc Việt không có giám mục. Cha Pierre Borie chưa nhận được tin thì đã bị bắt.
Cha Pierre Dumolin Borie sinh ngày 20-2-1808 tại làng Cor tỉnh Limousin, Pháp. Chú Borie được cậu ruột là linh mục hướng dẫn đã xin vào đại chủng viện năm cậu 18 tuổi. Trong thời gian này thầy quyết định đi xứ truyền giáo để giúp người xa lạ. Thầy bắt đầu tập chịu khổ cực trong cách ăn mặc cũng như thức ăn, sốt sắng cầu nguyện và thích ở một mình. Năm thứ ba thầy chịu tang cha và từ giã mẹ để vào chủng viện Paris. Thầy đã phải lẻn trốn mà đi vì biết rằng người mẹ ở lại phải đau khổ vô cùng. Trước lòng can đảm và cương quyết, tòa thánh đã chuẩn cho thầy được chịu chức linh mục sớm vào ngày 21-11-1838, vì chưa đủ tuổi. Ngày 1-12, cha xuống tầu sang viễn đông. Trước hết cha tới Macao ngày 15-7-1831, và năm sau, ngày 15-5-1832 tới Bắc Việt. Sau bốn tháng học tiếng Việt cha đã có thể giải tội. Bề trên sai cha đến coi xứ Nghệ An. Tại đây người Việt rất quí mến cha vì cha hoàn toàn đồng hóa như người Bắc Việt. Cha Masson làm chứng rằng: "Dù không hợp đồ ăn Việt Nam, Cha Borie đã ăn rất ngon lành làm như đã sinh ra ở Việt Nam vậy. Hơn nữa cha rất bình đẳng với dân chúng, đôi khi cũng nói đùa với họ nữa".
Khi có lệnh bắt đạo năm 1833, các thừa sai tản mác, Cha Borie Cao coi xứ Bình Chính, Bố chánh tỉnh Quảng Bình. Cha phải đổi chỗ ở có đến 17 lần. Năm 1835, cha có ý định táo bạo muốn về kinh để biện hộ đạo trước mặt vua, nhưng các thừa sai khác phải can lại vì Minh Mệnh quá hiểu biết đạo rồi.
Năm 1838 vì có kẻ tố cáo cố Kim (Candalh) mở chủng viện ở Di Loan, Minh Mệnh ra lệnh cho các quan lùng bắt, lệnh đến cả vùng Bố Chánh. Trong dịp này có tên Khiết tố giác Cha Khoa. Cha Ðiểm cũng bị bắt theo. Một người giúp việc của Cha Khoa đã không chịu được đòn tiết lộ nơi ở của Cha Borie ở Hướng Phương, nên quan quân lùng bắt dữ tợn. Một người giáo dân tên là Tham đưa ngài đến trong một hang ở bãi cát. Quan bắt được người con gái 16 tuổi tra tấn nhưng cô cam chịu đòn chứ không khai chỗ trú, nhưng cha cô lại nhát sợ đã dẫn lính đi lẩn quẩn gần chỗ trú. Thấy vậy cha Borie đã chui từ hố cát lên nói với lính: "Các ông đi tìm ai?"
Lúc bấy giờ đang đêm, quân lính nghe tiếng hỏi thì sợ hãi không dám làm gì, xin ngài ngồi xuống, lúc ấy mới có một tên lính dám xông vào đánh ngài và bắt ngài. Hôm ấy là ngày 8-6 âm lịch. Sáng ra, tiếng đồn cha bị bắt lan rộng, chú học trò tên là Tự đã đến gặp cha khóc lóc. Lính thấy vậy thì bắt trói lại. Cha Borie Cao sợ chú nhỏ tuổi không chịu được cực hình thì xin chuộc cho chú, song chú mạnh bạo thưa: "Lạy cha, con trông ơn Chúa giúp cho con chịu sự khó cho đến cùng".
Thấy vậy Cha Borie xẻ khăn đống đang đội trên đầu làm hai, cho chú Tự một nửa làm dấu kết nghĩa và nói: "Con hãy giữ miếng khăn này làm chứng lời con nói".
Sau đó cha và chú Tự bị giải về Ðồng Hới. Tại đây cha gặp Cha Khoa, Cha Ðiểm và một số giáo dân khác bị bắt.
Cuộc xưng đạo của ngài được chính hai vị Thánh Antôn Nguyễn Hữu Năm và Phêrô Nguyễn Khắc Tự, cùng bị bắt và tử đạo, sau này tường thuật lại. Trước hết các quan ở huyện hỏi cha về những người đã chứa chấp cha, nhưng cha đã từ chối không trả lờị Viên ký lục Thông nói với cha: "Nhưng nếu người ta lấy roi sắt đánh trên thân thể, liệu ông có im lặng mãi được không?" - "Ðến lúc đó sẽ hay, tôi không khoác lác trước tòa án".
Trong những ngày đầu bị giam giữ, Cha Cao đã dùng thời giờ ca hát những thánh vịnh, an ủi giáo dân. Khi các quan hỏi han về lẽ đạo ngài sốt sắng trả lời tỉ mỉ, giải đáp mọi thắc mắc. Một hôm quan Bộ (tuần phủ) nói cho cha biết sẽ trừng trị bằng những lời nói điên rồ thóa mạ đạo, cha đáp: "Thà rằng đánh đập cho thân xác tôi đẫm máu, xé thành từng mảnh như quan muốn hơn là dùng những lời nói thóa mạ".
Phần dân chúng có vô số ngưới thích đến nghe cố Cao nói truyện về đạo. Lòng thương mến người và niềm vui phát ra từ nét mặt, mặc dù gông cùm khó chịu đã làm lương dân thán phục. Họ nói với nhau: "Vị đạo trưởng này thật mê say đạo của mình, nếu ngài có thể tiếp tục dạy chúng ta, chúng ta sẽ tin theo giáo lý của ngài".
Từ đó các giáo dân ở các làng không còn bị lương dân sách nhiễu nữa. Thật vậy, có thể nói rằng vị chủ chiên bị bắt thì đoàn chiên được buông tha.
Khoảng tháng Tám, quan tổng cho lính xuống dẫn giải các cha về tỉnh. Ba cha được họ khiêng trên võng vì đường dài. Giáo dân khóc lóc theo chân. Tới bờ sông họ lội nước tới ngực để có thể theo đưa chân các cha cho tới cùng. Ngày hôm sau, 3-8, quan án bắt đầu tra hỏi cha tên tuổi, tầu nào mang cha tới Nam Việt, đã ở trong nước bao lâu, đi những nơi nào. Cha Cao lần lượt trả lời: "Tôi được 30 tuổi rưỡi, đến Bắc Việt trong tầu của một vị quan đại thần, tôi đã thăm viếng tất cả các phần đất trong tỉnh từ 5,6 năm nay. Không có gì quan trọng phải kê khai từng nơi tôi đã đi qua. Tôi đến đây một mình. Và giờ đây tôi bị bắt nhưng tôi không phàn nàn điều gì cả, còn dân chúng là đại gia đình của quan, nên tôi xin quan đối xử nhân từ với họ và để cho giáo dân Bình Chính được bằng yên chỉ vì tôi mà họ phải liên lụy".
Quan lại nói: "Chúng tôi rất thương dân chúng và quyền lợi của ông, vì ông không phải là kẻ cướp ngoài đường, nhưng chỉ vì ông theo đạo Gia Tô vì thế có lệnh của vua truyền chúng tôi phải tra khảo ông".
Sau đó lính đóng cọc xuống đất, đè Cha Cao nằm úp xuống rồi cột tay chân vào cọc, độn miếng gỗ dưới bụng cha và miếng khác dưới cằm. Sau đo họ đánh thẳng tay 30 roi. Trong 20 roi đầu cha không than thở một lời mặc dù máu chảy ra đầm đìa. Chỉ 10 roi sau cùng mới làm cho cha rên rỉ. Trong lúc bị đánh cha đã giét khăn tay vào trong miệng. Quan nói với lính: "Ðủ rồi, đánh đập chỉ mất giờ mà thôi".
Ông lại hỏi Cha Cao xem có đau không. Cha nói: "Tôi là người có xương có thịt như các người khác làm sao khỏi đau được? Nhưng tôi không quan tâm, trước và sau khi đánh đập cũng thế mà thôi, tôi rất hài lòng".
Thấy vậy quan nói: "Người Âu Châu can đảm không lay chuyển được, chúng ta hãy tra tấn đứa học trò vậy, roi đòn sẻ dậy cho nó biết khai ra".
Thầy Tự bị tra tấn bốn lần, chịu 110 roi. Thầy Tự một mực cam chịu đòn không khai gì khiến các quan phải thán phục nói: "Cậu thiếu niên này quyết tâm trở thành đạo trưởng và quả thực cậu ta xứng đáng. Cậu được Chúa phù trợ ban sức mạnh và mẫu gương của thầy mình khích lệ".
Cha Cao còn bị tra hỏi nhiều lần nhưng vẫn một mực im lặng. Quan hỏi tại sao cố chấp như vậy, Cha Cao đáp: "Bên Âu Châu khi một người bị cáo ra trước tòa án xét xử, ông ta sẽ được xét xử theo luật lệ trong nước. Nếu có tội thì bị kết án và đưa đầu ra cho lý hình chứ không có bị đánh đập bắt nhận tội. Ðánh đập chỉ là hành động tàn bạo. Vì lẽ đó mà tôi không nói".
- "Nếu vua truyền lệnh đòi ông về kinh đô, có lò lửa nung kìm kẹp, thân xác ông sẽ bị lôi ra từng mảnh, liệu ông có thể chịu đựng nổi mà im lặng không?"
- "Khi nào vua ra lệnh sẽ biết, tôi không nói trước được".
Ðứng trước lòng can đảm bền vững của ông Năm và Thầy Tự, quan đến hỏi Cha Cao, mấy người có đạo khác dễ dàng bước qua ảnh, sao Thầy Năm này lại không chịu. Cha Cao đáp: "Vì mấy người khác không biết đạo cho rõ, không tin cho mạnh, còn Thầy Năm thì đã thông lẽ đạo, lại mạnh tin vững vàng, cho nên không có lẽ mà phạm tội chối đạo bước qua ảnh được".
Sau cùng ngày 9-11 cả ba quan họp lại mà ra án cho ba cha và tâu về kinh. Trong thời gian tù cha nhận được tin làm giám mục, cha viết thơ lại cho cố Nghiêm và các cha chủng viện Paris, trong đó có đoạn như sau: "Tôi chỉ còn sống ít ngày nữa thôi và tôi để tâm dọn mình cho được chiến thắng trận cuối cùng. Tôi vẫn một lòng tưởng nhớ công ơn giáo hội đã làm cho tôi và cảm ơn các vị đã lo lắng cho tôi. Lòng yêu thương hằng nối kết chúng ta lại với nhau càng làm cho tôi bền chí đến cùng. Chúng tôi phải ra trước tòa quan nhiều lần, và nhờ ơn Chúa chúng tôi đã xưng đạo Chúa là đạo chân thật trước mặt mọi người. Gông cùm, roi đòn có làm cho chúng tôi kinh sợ, song trông cậy vào ơn Chúa phù trợ chúng tôi sẽ được ơn bền đỗ, dâng mạng sống mà làm chứng đạo thánh Chúa".
Cha Cao vẫn ước ao được sống cho đến ngày bị xử tử nên bảo giáo dân: "Anh em hãy lo thuốc men cho tôi để sống tới ngày vua ra án tử, để như thế tôi chết vì đạo sáng danh Chúa hơn là chết vì bệnh".
Nếu người ta nói tới đút tiền để cha khỏi bị cơ cực thì ngài nói: "Tôi không còn sống lâu, cần chi phải đút lót để giảm bớt cơ cực, còn Cha Ðiểm và Thầy Năm đã già có phải gông cùm thì tôi xin chịu thế cho".
Ngày 24-11-1838, lời phê án của vua Minh Mệnh ra tới tỉnh và được quan đến đọc cho các cha biết. Cha Cao vui mừng lạy tạ quan và nói: "Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa hề sấp mình lạy một người nào, nhưng hôm nay vì quan lớn đã liệu cho tôi được ơn chết vì đạo thì tôi xin lạy để cảm ơn quan".
Quan lớn cảm động vội nâng người lên. Lúc ấy quân lính đến để dẫn giải các tù nhân ra pháp trường.
Cha Cao đi trước giữa hai hàng lính, bước chân nhanh nhẹn thỉnh thoảng ngoái cổ lại đàng sau để xem hai cha Việt Nam đi sau. Các đấng, cổ đeo gông chân mang xích, khua vang đường phố, hòa lẫn tiếng kinh đọc và lời ca hát của các ngài làm thành một hoà điệu thấu nhập vào lòng người. Một quan ghét đạo đến gần Cha Cao hỏi: - "Ông có sợ chết không?" - "Tôi không phải là một tên giặc hay là trộm cướp gì mà sợ, tôi sợ có một Ðức Chúa Trời mà thôi. Nhưng mà hôm nay tôi chết, ngày mai ngày mốt lại đến lượt kẻ khác, có gì mà sợ?"
Ông quan giận mắng lại: "Thật vô phép, lính đâu hãy vả vào mặt nó".
Nhưng lính đi hai bên không anh nào dám làm. Cha Cao thấy vậy thì xin lỗi: "Thưa quan, tôi có thưa lời nào vô phép thì xin quan tha cho".
Tới nơi xử, đã có sáu tấm chiếu mới trải sẵn, các cha quì xuống và cầu nguyện giây lát. Riêng Cha Cao ngồi xếp tròn, kéo áo xuống khỏi vai chờ lưỡi gươm của lý hình. Sau tiếng còi lệnh thứ ba, lý hình thắt cổ hai cha Việt Nam trước rồi đến người có phận sự chém Cha Cao thi hành nhiệm vụ. Bản án viết trên tấm gỗ như sau: "Tù nhân Âu Châu có tên là Borie Dumolin là ngoại nhân đã dùng lời khai trá, lén lút vào nước, đi đây đó giảng đạo Gia Tô xấu xa để lừa dối và dụ dỗ dân cứng cổ, làm mê hoặc lòng người. Lệnh phải chém".
Bữa ấy anh lý hình, vì say rượu không tỉnh táo, chém lát thứ nhất trúng tai cha và cằm, lát thứ hai chém đứt một bả vai, và lát thứ ba chém trúng cổ, nhưng không đứt. Anh ta phải chém bảy lát mới kết thúc. Ngay sau đó giáo dân ùa vào tôn kính, thấm máu đào lưu giữ làm kỷ niệm. Theo luật, xác các ngài đã phải chôn tại chỗ xử và năm sau mới có người lén trộm xác ban đêm với sự đồng ý ngầm của quan. Di hài Cha Cao được chôn tạm ở Nghệ An. Năm 1842, được đưa về chủng viện Paris, Pháp.
Đã đọc: 736 |