 Phêrô Võ Ðăng KHOA, sinh năm 1790 tại Thượng Hải, Nghệ An, Linh Mục, xử giảo ngày 24-11-1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 24-11.
Cha Phêrô Võ Ðăng Khoa sinh khoảng năm 1790 tại làng Thượng Hải tỉnh Nghệ An. Cha là Phaolô Tân, mẹ là Pia Phạm Thị Hoan. Năm chín tuổi cậu Khoa được cha mẹ cho đi học chữ nho. Các cha thấy cậu sáng dạ và ngoan ngoãn đã chọn cậu vào nhà Ðức Chúa Trời ở với Cha Hoa và Phượng. Sau đó chú Khoa được gửi về Kẻ Vĩnh học La Tinh và Lý Ðoán. Thầy Khoa được chịu chức linh mục năm 1830, lần lượt giúp các xứ Bạch Bát, Thanh Chương, Kẻ Ðông, Bình Chính trong hai làng Lu Ðang và Vĩnh Phước. Sau cùng cha được chỉ làm cha xứ Cồn Dừa.
Tướng mạo cha rất nghiêm trang khiến người mới gặp phải sợ hãi, nhưng một khi đã tiếp xúc thì mộ mến nhân đức và lòng ưu ái của ngài. Suốt đời cha phải cực khổ, đến khi bắt đạo lại phải trốn chạy, không nhà không cửa. Trong hai năm cuối trước khi bị bắt, cha đã trọ tại nhiều nhà vừa để tránh quan quân vừa để củng cố đức tin giáo dân.
Ngày 27-7-1838 Cha Khoa đi làm lễ ở Lễ Sơn bị Tú Khiết mang 15 gia nhân đến bắt. Vì từ 26-6 có lệnh triều đình lùng bắt cố Kim (Cha Candahl) ở 3 tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng Bình. Ngày 8-7, quan huyện giải Cha Khoa và 2 chú về tỉnh Ðồng Hới, và một tuần sau quan tra tấn Cha Khoa và tường trình về bộ hình. Cha Khoa cam chịu 79 roi không xưng tên một ai, nhưng chú Khang, học trò của ngài, vì bị đánh đau và nhát sợ nên đã khai nơi ở của cố Cao (Cha Borie) và một số cha khác ở Bình Chính. Ngày 26-7, quan huyện Nguyễn Tế Thế sai 60 lính đi Cồn Giữa để bắt cố Cao nhưng không được liền đến Hướng Phương như lời khai của chú Khang. Ở đây cũng không bắt được ai nên quan huyện cho lính càn quét các làng Ðan Sa, Diên Phúc và Mĩ Hòa. Vì thế họ đã bắt được Cha Ðiểm ở Ðan Sa ngày 27-7 và Ðức Cha Cao ở Mĩ Hòa ngày 31-7. Thầy Tự nóng lòng muốn biết Ðức Cha Cao gặp nạn thế nào liền đến Mĩ Hòa, nên thầy cũng bị bắt ngày 31-7-1838. Ðức Cha Cao, Cha Ðiểm và Thầy Tự bị giải về Ðồng Hới, nơi Cha Khoa đang bị giam giữ, ngày 2-8.
Khi cả ba cha và Thầy Tự bị giam tại Ðồng Hới, Cố Cao thay mặt trả lời các điều quan hỏi. Ngày 4-8, trong lần tra khảo thứ hai quan có hỏi riêng Cha Khoa: "Trước đây ông có biết hai người này không?"
Cố Cao thưa thay: "Bây giờ chúng tôi biết nhau, nhưng trước đây quan quân lùng bắt, mỗi người tan tác mỗi nơi không gặp nhau".
Trong nhà tù Quảng Bình, ba cha vẫn cầu nguyện chung với nhau. Có hai người, ông Trùm Năm và Thầy Tự, cũng bị giam nhưng ở lầu dưới.
Ngày 9-11, các quan làm án cho ba cha phải xử tử, hai Cha Khoa và Ðiểm bị xử giảo, còn ông Năm và Thầy Tự giam tù chờ lệnh sau. Ngày 24-11, án của vua phê ra tới tỉnh nhằm ngày thứ Bảy, các cha đang ăn chay. Hôm ấy quan làm cỗ cho các tử tù, song ba cha không ăn chỉ uống một ít rượu cho đẹp lòng quan. Các tù nhân khác đều đứng dậy chào ba cha lần cuối trong nước mắt. Quan nói với các cha là không thể dời việc hành quyết lại ngày khác để các cha có thể ăn thịt được, rồi ông đọc bản án. Cha Cao lần đầu tiên lạy cám ơn quan vì ơn trọng được tử đạo vì danh Chúa, hai Cha Ðiểm và Khoa cũng làm theo. Sau đó ba cha bước theo lính đến nơi hành quyết. Hai hàng lính đi hai bên, ở giữa là Cha Cao đi trước, đến Cha Khoa rồi Cha Ðiểm. Cả ba vị hớn hở bước đi. Có bốn người lính nâng bốn góc gông của các ngài. Tới nơi xử gọi là Tân Ninh, giáo dân trải sẵn sáu tấm chiếu mới. Cha Khoa và Cha Ðiểm nằm sấp mặt xuống chân tay trói vào ba cọc như hình thánh giá. Hai bên đầu giây xiết cổ hai cha, đưa linh hồn các ngài về với Chúa. Tấm thẻ gỗ viết án Cha Khoa như sau: "Võ Ðăng Khoa thuộc làng Thuận Ngãi tỉnh Nghệ An, đạo trưởng Gia Tô phải xử giảo theo lệnh vua". Xác các ngài được chôn tại chỗ xử, ngoài thành Quảng Bình bên kia sông.
Phêrô Trần Văn Thiềng đã tường thuật việc bốc xác ba đấng tử đạo như sau: "Cha Chính Nghiêm (Masson) coi sóc xứ Nghệ, sai tôi là kẻ giảng Phêrô Trần Văn Thiềng vào Quảng Bình sảnh, Bình Chính huyện, năm 1839, năm An Nam là Kỉ Hợi, vua An Nam là Minh Mệnh thập cửu niên (19).
Người dậy tôi rằng: "Con vào trong ấy mà lo liệu cất xác các đấng về cho cha, mà có đưa về cả được thì tốt, bằng chẳng liệu được cả thì cha cho phép lấy hài cốt các ngài cho dễ như thói An Nam đã quen."
Tháng mười ta năm ấy tôi ở tại tỉnh Quảng Bình có Thầy Tự là con (thiêng liêng) cố Cao và ông Năm phải giam ở đó. Hai ông ấy bảo tôi rằng: "Ông phải lo liệu đưa xác các đấng ấy đi cho chúng tôi xem thấy, kẻo sau này quan xử chúng tôi rồi thì chẳng có ai đến đây làm chi nữa, mà bỏ các ngài mãi đó thì chẳng được."
Tôi nói cùng Thầy Nguyên và chị Mễ xin lo liệu chung với tôi. Sau đó chúng tôi vào thưa quan xin người phủ làm đơn cho chúng tôi được lĩnh xác ba ông đạo trưởng, kẻo để các ngài nơi trâu bò đi lại thì chúng tôi lỗi đạo cùng các ngài, vì chúng tôi là đạo kẻ làm con.
Quan liền nói: "Ta chẳng dám phúc đơn vì vua đang ghét lắm. Bay có lấy trộm được thì ta cho phép."
Chúng tôi bàn cùng nhau lấy trộm xác các ngài ban đêm vào tháng Mười năm ấy. Khi mở xăng Cố Cao ra thì không thối không thâm, trong xăng có nước đứng đến trên cổ chân. Ngài phải chém đầu, cho nên khi ấy tuốt một cái thì thịt ra một đàng, xương ra một đàng, chân thừa ra ngoài xăng độ hơn một gang thì thịt có mềm song không tuốt đi được. Còn từ vai trở xuống, thịt còn cứng không lấy xương ra được, phải khiêng lên đem vào nhà tế dượng, mà lấy xương ra một đàng, thịt ra một đàng, nhưng cũng không lấy được, vì thịt chắc lắm, cho nên phải đem vội xuống thuyền đến chợ Ðồng Hới một ngày một đêm. Khi đem vào nhà tế dượng, thì có phỏng chừng hơn mười lăm người xem thấy, kẻ có đạo khoảng 4, 5 người mà thôi, còn những người không đạo là kẻ ăn mày cũng xem thấy như vậy.
Ðến tối hôm sau mới lấy xác Cố Khoa thì thịt ngài có mềm hơn, song cũng chẳng lấy thịt ra một đàng xương ra một đàng được, lại phải khiêng xác xuống thuyền, đến hôm sau lại đưa cả hai xác lên nhà Thầy Nguyên ở làng Mỹ Hương huyện Lệ Thủy. Từ nơi lấy xác mà đến nhà Thầy Nguyên phải chừng nửa ngày đàng mới tới, chúng tôi đào lỗ xuống đất và để xác các ngài xuống, đoạn đổ vôi vào hai xác ấy cho nát thịt ra, để chỉ lấy xương, song thịt cũng không nát. Sau phải xé thịt ra mà lấy xương rồi mới lấy giấm và rượu để rửa, đoạn lấy giấy và vải bọc xác hai đấng ấy và bỏ vào bồ đậy lại. Ðoạn tôi đưa về Nghệ An, Thược Dược xã, Chân Lộc huyện, Kẻ Gốm thôn. Khi ấy hai cố ở đó là Cố Chính Nghiêm (Masson) và Cố Nhượng (Simonin). Hai cố ấy lấy làm mừng, cất xác Cố Cao cách trọng thể lắm.
Ðây là những lời chúng tôi, là kẻ lo việc, xin làm chứng rất thật chẳng dám thêm bớt chút nào, xin người thương cho. Petrus con mọn Thiềng ký".
Cha Masson tỏ ra hối tiếc vì thầy giảng đã làm theo lệnh từng chữ, khiến không mang thân thể các ngài về toàn vẹn. Họ mang về lần thứ nhất xác Cha Cao và Khoa, lần sau xác Cha Ðiểm. Chiều ngày 2-12, xác các vị được đưa tới chỗ Cha Masson trú. Cha Masson dựng một nhà mồ để hài cốt các ngài, đốt đuốc trọn hai ngày đêm. Hai cố cùng với giáo dân cử hành nghi lễ an táng trọng thể. Trong thánh lễ có năm cha Việt Nam và nhiều Thầy Sáu, Thầy Năm. Sau lễ, hài cốt các ngài được chôn xuống lòng nhà thờ cũ.
Đã đọc: 560 |