Đức tin bằng hạt cải
 Sau khi nghe Đức Giêsu nói một loạt những dụ ngôn như: Men trong bột, muối đất, con chiên lạc, người cha nhân hậu với đứa con phung phá, quản lý bất trung, ông phú hộ … và những lời khiển trách Pharisiêu ham tiền, cảnh cáo kẻ gây cớ cho người ta và nhất là kẻ bé nhỏ vấp ngã sẽ bị cối đá buộc vào cổ ném xuống biển. Đức Giêsu khuyên các môn đệ tha thứ cho nhau, đặc biệt khuyến khích các ông từ bỏ mình, vác thập mình mà theo Người. Các tông đồ đã xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Người kêu gọi các ông phải có đức tin chỉ lớn bằng hạt cải thôi, cũng có một sức mạnh chuyển núi dời non để có tinh thần khiêm tốn phục vụ như một đày tớ hết lòng chu toàn mọi việc cho chủ mà vẫn thấy mình vô dụng.
Đức Giêsu đòi các tông đồ, các môn đệ và mọi tín hữu phải có đức tin như thế. Biết bao nhiêu vị Thánh đã đáp lại lời khuyên đó.
Vị tông đồ vĩ đại như Phaolô, đức tin mạnh mẽ như sắt đá, không sức mạnh nào khuất phục được, dù binh hùng tướng mạnh của Đế quốc Rôma, dù cực hình, dù biển cả, dù sự chết, cũng không làm Ngài chùng bước phụng sự Chúa và đi cứu hàng triệu các linh hồn thuộc hàng chục quốc gia về cho Chúa. Thế mà Ngài chỉ thấy mình như một đứa trẻ sinh sau đẻ muộn, thiếu ngày tháng, luôn luôn nhận mình tội lỗi nhất. Ngài viết: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đó là Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ số một là tôi” (Tm. 1, 15). Thánh Phaolô viết thư này trong tù để, khuyến khích Timôthêu tin tưởng mạnh mẽ vào việc loan báo Tin Mừng. “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người”. Như vậy, Thánh Phaolô muốn thúc giục Timôthêu và chúng ta tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu, dù chúng ta gặp bất cứ khốn khó nào, cũng được Người cho chúng ta chiến thắng và đầy tràn ân sủng (Bài II).
Tiên tri Habacúc sống 600 năm trước Đức Giêsu, khi thấy dân Chúa bị quân Babilon chiến thắng, bạo tàn, phá hủy vương quốc Giuda, ông đã kêu gọi họ tin tưởng nhẫn nại chờ ngày Thiên Chúa đến cứu độ đúng kỳ Chúa hẹn (Bài I). Nhiều lần Đức Giêsu đã nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Theo bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói mạnh mẽ hơn: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Nhưng dù làm được việc lạ lùng như thế, “thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”.
Quả thực, chính đức tin cho chúng ta làm được những việc lạ lùng và đồng thời cho biết: Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, vì không có ơn Chúa, Chúng ta chẳng làm được gì.
Thánh Phanxicô Salê lúc 19 tuổi bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết và thấy mình thật vô dụng. Ngài đã nói với thầy dậy y khoa rằng: “Khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho sinh viên học tập mổ sẻ”. Thời đó, năm 1587, mổ xẻ xác người, ăn cắp xác người chết là thứ tội gớm ghiếc. Vì thế, trường y khoa buộc lòng phải ra nghĩa địa ăn trộm xác về cho sinh viên học tập. Nên ông thầy trả lời: “Chắc gia đình sẽ kết án thầy”. Vị thánh trẻ nài van: “Điều đó rất an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn sống, con chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì tốt”. Sau này ngài đã làm Giám mục thành Giơ-ne-vơ. Vua Louis IV phải công nhận rằng: “Giám mục Geneve có tất cả mọi nhân đức và không hề lầm lỗi! Ngài đã làm bao nhiêu việc tông đồ lớn lao và giúp giáo phái Calvin trở lại. Thế mà ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”.
Ngày nay, trong thế giới văn minh hiện đại này, không ai không biết đến một bà già qua đời năm 87 tuổi (-1997). Bà không một địa vị, chức quyền trong xã hội. Thế mà từ Tổng thống, Chủ tịch các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, đến các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam Bốt đều mời bà đến viếng thăm, đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ chỉ là một chị Dòng Bác Ái. Năm 1948, Mẹ nhìn thấy một bà đói ăn nằm bên đống rác, một trẻ sơ sinh bị vất vào sọt rác, lòng mến Chúa và thương người mạnh mẽ của Mẹ đã khiến Mẹ xúc động vô cùng đau xót. Mẹ nhìn thấy những người đau khổ đó như Đức Giêsu bị bỏ rơi. Từ đó Mẹ đã hiến cả cuộc đời cho những người phong cùi, đau ốm, cùng khổ đang hấp hối nằm hè phố, ở ổ chuột, nơi cống rảnh để đưa về phục vụ họ như ông chủ của mình, như Chúa của mình, Mẹ đã lập gần 300 nhà dòng trên khắp thế giới và nhất là Ấn Độ để nuôi dưỡng, chăm sóc các người đau khổ, neo đơn, bệnh tật, cô nhi. Và có lẽ không ai trên thế giới này đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý bằng mẹ. Ấn Độ tặng Mẹ giải thưởng Bông Huệ tuyệt vời năm 1963. Phi Luật Tân tặng Mẹ giải thưởng Massaysay. Rôma tặng Mẹ giải Hòa Bình Gioan 23 năm 1974 và Mẹ được tặng giải Nobel Hòa Bình thế giới năm 1979. Thế mà mẹ luôn coi mình là cây bút chì nằm trong tay Thiên Chúa, không dám coi mình là đầy tớ vô dụng nữa.
Lạy Chúa, đức tin của Mẹ Têrêxa cho Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người hèn mọn đau khổ, và thấy mình chỉ là thứ đồ vật nhỏ bé chưa đáng là đầy tớ của Thiên Chúa. Đức tin đó đã làm rung chuyển cả thế giới này. Xin cho chúng con cũng được đức tin khiêm tốn tột cùng đó, mới mong làm rung chuyển lòng Người.
Đã đọc: 261 |