 Phêrô Nguyễn Văn ÐƯỜNG, sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam, Thầy Giảng, xử giảo ngày 18-12-1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 18-12.
Phêrô Nguyễn Văn Ðường sinh năm 1808 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nội. Gia đình nghèo khó nhưng rất đạo đức, có hai chú ruột làm cha, trong đó có Cha Nguyễn Văn Thi, Thánh tử đạo. Mới được chín tuổi, cậu Ðường đã xin với chú là Cha Thi cho đi ở nhà Ðức Chúa Trời. Cha Thi đang coi xứ Sông Chảy gửi chú Ðường ở với Cha Phượng là cha xứ ở An Tập. Sau sáu năm thì chú Ðường lại ở với Cha Trạch, xứ Bầu Nọ. Năm ngài được 26 tuổi, bề trên ban sắc cho làm thầy giảng và giúp xứ Bầu Nọ. Thầy Ðường rất vui tính, chăm chỉ làm việc và sốt sắng đọc kinh.
Trong thời kỳ bắt đạo cha xứ phải đi trốn, trong nhà chỉ có Thầy Mĩ, Thầy Ðường và Thầy Truật. Thầy Ðường mau mắn vâng lời thầy bề trên, và cần mẫn làm tràng hạt cho bổn đạo. Khi quan lãnh binh vây làng Bầu Nọ để bắt Cố Cornay, nhưng không được thì người tố giác đã chỉ mặt Thầy Mĩ và Thầy Truật là người của Cố Cornay. Thầy Mĩ và Thầy Truật chịu đòn vẫn không khai nơi trốn của cố, người tố giác lại chỉ mặt Thầy Ðường đang ngồi giữa đám dân chúng nói rằng, thầy cũng là người của cố Cornay. Thế là ba thầy bị bắt trước, rồi sau Cố Cornay cũng bị bắt.
Các thầy bị tra tấn ba lần hết sức dã man đến nỗi Cố Cornay ngồi trong cũi thấy vậy cũng phải hô lên: "Bên nước chúng tôi không có việc tra tấn như vậy".
Thầy Ðường bị đánh 80 roi. Mọi lần Thầy Mĩ vẫn thưa thay cho cả ba. Thầy Ðường chỉ một mực nói: "Quan lớn muốn tha thì được nhờ phúc dư của quan lớn, mà nếu quan lớn bắt tội phải chém hay chết cách nào thì cũng sẵn lòng. Còn việc bước qua ảnh để chối đạo thì không bao giờ, vì cho dù làm vậy được thong dong ít lâu ở dưới thế này mà lại thiệt mất linh hồn và xác đời đời".
Các quan làm án cho Thầy Ðường phải xử giảo nhưng Minh Mệnh đã sửa lại là giảo giam hậu.
Trong tù, Thầy Ðường có viết cho Cố Marette mấy bức thư mà cố đã trích lại trong bài tường thuật về tử đạo của ba thầy giảng xứ Bầu Nọ: "Con mọn là Ðường lạy cố ngàn lạy. Con có nhiều tội không đáng viết thơ cám ơn và cầu chúc cố, song tin vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu Kitô, con xin Người gìn giữ cố hồn an xác mạnh để giáo hội Bắc Việt được tồn tại lâu dài, nhờ các việc lành của cố. Từ khi con được diễm phúc chịu khổ vì đức tin, con vẫn nương nhờ Thầy Cai Mĩ viết thay. Nhưng hôm nay, trước khi sắp lìa bỏ cõi đời, con tự nghĩ đến công ơn nhiều vô kể của cha, như là cây trên rừng và như hạt cát dưới bể, con sợ là vô ơn nếu không ít nhất một lần, bầy tỏ lòng biết ơn của con. Con chọn ngày hôm nay, là ngày được ơn trọng rước Mình Thánh Chúa. Sau khi tạ ơn Chúa đã đoái thương thăm viếng ủy lạo chúng con trong cảnh tù đầy, chúng con không quên người cha đã có công dậy dỗ săn sóc đến chúng con. Khi con nghĩ đến việc các anh em phải phiêu bạt tán loạn, đến các nguy khốn đe dọa các tôi tớ của Chúa, con đã có ý nghĩ trở về nhà với cha để chia sẻ những giây phút lo âu. Nhưng đàng khác con lại sung sướng nghĩ đến quê trời đang chờ đợi chúng con đến nỗi không còn ước mong điều gì khác nữa. Con dám xin cố nhắn với hai cha chú của con là Cha Thi và Cha Ðệ để làm cho con ba lễ theo ý chỉ sau đây: lễ thứ nhất cầu cho tất cả những người làm việc truyền giáo đã qua đời, là những người đã vất vả vì giáo dân và con đang chia sẻ nghĩa vụ. Lễ thứ hai cầu cho tất cả những ân nhân của con từ bé đến lớn, nhất là những người săn sóc con trong nhà giam. Lễ thứ ba cầu cho cha mẹ con và tất cả những linh hồn đang phải ở luyện ngục. Về phần con, con không xin gì vì tin chắc rằng cha sẽ không quên con sau khi đã chết, cũng như trong suốt đời con".
Mùa thu năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), các quan triều đình xem lại án và truyền cho ba thầy phải xử giảo. Án lên đến tỉnh ngày 17-12, quan đề lao đã báo tin cho các thầỵ Hôm ấy các thầy cho làm một bữa cơm sang trọng mời các quan coi tù, các bạn tù và lính canh dùng để tỏ lòng cám ơn. Các thầy cũng lo xếp đặt những sự cần thiết và nhắn Cha Triệu đến giữa đám đông trong ngày hành quyết để ban phép giải tội lần sau cùng.
Ngày 18-12-1838, vào giữa trưa, quân lính đến dẫn các thầy ra nơi hành quyết. Mỗi thầy có bốn tên lý hình đi chung quanh. Người ở phía trước cầm thẻ gỗ đề án xử, hai người hai bên giữ gông xiềng và người đi sau cầm gươm. Bản án của Thầy Ðường ghi: "Nguyễn Văn Ðường ở làng Ninh Phú, huyện Thanh Liêm có tội vì theo đạo Gia Tô nó đã nhận. Án mùa thu năm nay truyền cho nó phải xử giảo. Minh Mệnh năm 19, ngày 2 tháng 11 ta".
Ðến phố Nhi, các lính theo thói trong nước dọn mâm cỗ cho các tù nhân. Thầy Ðường từ chối không ăn gì, nói: "Chúng tôi kiêng không uống rượu là dấu chứng tỏ chúng tôi từ bỏ mọi vui sướng xác thịt và không thông đồng với giặc".
Khi người ta ép thì thầy uống một chén trà và ăn một miếng giầu. Ðến nơi xử là Gò Sỏi ở Bến Mới (Mông Phụ) Cha Triệu lại ban phép giải tội cho thầy lần nữa. Các lý hình đã không sửa soạn đúng mức, nên khi vừa có lệnh đã kéo giây mà không thắt cổ ngay nên làm cho đầu Thầy Ðường phải vật vã hồi lâu, đập xuống đất. Sau khi chết, các lý hình phải đốt ngón chân cái để xem đã chết thật chưa, nhưng lính đốt cả bàn chân Thầy Ðường khiến dân chúng la lối và quan đánh phạt nó ba cái cán gươm.
Xác ba thầy được người Công Giáo đưa đến Cố Ðô thì tối và tiếp tục lên tới Kẻ Máy (Cao Mại). Nơi đó có Cố Marette, Cha Triệu và Cha Trình làm lễ an táng. Sau lễ, cả ba thầy được chôn trong nhà bà Tín. Sau Cha Phượng cho đem về táng ở gian thứ hai tại nhà thờ Kẻ Máy.
Đã đọc: 520 |