 Nguyễn Văn MĨ, sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, xử giảo ngày 18-12-1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 18-12.
Khi quan quân bắt Thừa Sai Cornay ở Bầu Nọ, Sơn Tây thì họ cũng bắt ba thầy giảng Mĩ, Ðường và Truật. Ban đầu các thầy bị kết án giam hậu nên không được tử đạo cùng với Cha Cornay. Trong suốt thời gian một năm rưỡi ở trong tù, Thầy Mĩ đã có công dẫn dắt các thầy kia và mạnh mẽ xưng đạo trước mặt quan.
Trong bản án ghi rõ quê quán của Thầy Mĩ như sau: "Nguyễn Văn Hữu, ở làng Sơn Nga, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nội có tội vì theo đạo Gia Tô. Nó đã xưng nhận như vậy. Án của triều đình xét lại mùa thu năm nay truyền phải xử giảo. Minh Mệnh năm thứ 19 tháng 2 ngày 11 âm lịch".
Thầy Mĩ sinh năm 1798 tại làng Kẻ Non. Cha mẹ tên là Hữu Ðắc vào bậc khá giả và có lòng đạo đức, dậy dỗ con cái biết chăm lo đến phần rỗi đời đời. Ngài là em trong số năm người con, anh cả tên là Nguyễn Văn Hữu còn tên ngài ở nhà là Hào.
Chú Mĩ đã dâng mình trong nhà Chúa, ở với Ðức Cha Longer, sau ở với Cha Luật, xứ Kẻ Ðam. Khi Cha Luật đổi xứ thì chú Mĩ về học ở Vĩnh Trị. Năm 1823, làm thầy giảng giúp Cha Luật ở Kẻ Trình. Năm 1834, thầy vâng lệnh bề trên đi lên miền núi ở Sơn Tây. Sau ba năm phục vụ, thầy đã được bề trên chọn lên chức linh mục, song ý Chúa lại định cho thầy được phúc tử đạo trước.
Ngày 20-6-1837, khi quan vây làng Bầu Nọ, Thầy Mĩ nhờ người đem Cố Cornay đi trốn, còn thầy mang các đồ đạo đi giấu, rồi cùng với các thầy khác theo lệnh quan ra đình làng để điểm mục. Quan vây làng và khám xét từ sáng đến trưa mà không bắt được ai thì định tâm rút quân, nhưng bà Yến là người tố giác đã quả quyết là có cố tây và chỉ mặt Thầy Mĩ, Thầy Ðường và Thầy Truật cho quan bắt. Các thầy bị đánh đòn tra khảo chỗ ở của Cố Cornay, song các thầy can đảm chịu đòn chứ không khai chỗ trú ẩn. Buổi chiều khi Cố Cornay bị bắt rồi, thầy mới khai nơi cất dấu đồ đạo một ít. Các thầy phải dầm sương giãi nắng suốt ba ngày theo đoàn quân về tỉnh Sơn Tây. Trong tù Thầy Mĩ và Ðường phải đeo gông và xích nặng, ban đêm có cùm chân. Trên gông có đề chữ Mĩ, Ðường tôi tớ của Cố Tân. Còn Thầy Truật trẻ, nên chỉ mang gông nhẹ và có thể đi lại tự do trong tù.
Chính ba thầy đã viết thư tường thuật tất cả mọi việc từ khi bị bắt và giam tù cho hội truyền bá đức tin. Về cảnh tra khảo các thầy viết: "Từ khi vào trong tù chúng tôi phải điệu ra trước mặt quan hàng ngày mặc dù chúng tôi đã nhất quyết phủ nhận không biết gì về tướng giặc cũng không bao giờ giúp họ. Các quan vừa đe dọa vừa dụ dỗ để ép chúng tôi tiết lộ về các thừa sai hoặc phải chối đạo. Thầy Mĩ bị coi là tội nhân chính đã phải ra trước tòa quan án 40 lần. Trước hết, họ lột quần áo chúng tôi. Chúng tôi phải nằm dưới đất, tay chân bị trói giang ra các cọc thật đau đớn. Sau đó họ đánh đòn. Lần sau cùng họ đã đánh bằng roi có nhiều sợi chì. Họ thay phiên nhau để đánh. Mỗi lần roi quất các móc chì lôi thịt ra làm thành những vết thương. Thầy Mĩ chịu 130 roi, Thầy Ðường 90 và Thầy Truật 60. Sau lần tra khảo ấy, hai người lính phải khiêng chúng tôi về nhà giam và sau nhiều ngày chúng tôi mới có thể mở miệng nói được vài lời. Mục đích các lần tra tấn là để bắt chúng tôi phải nhận là người phản nghịch và trộm cướp. Vì đã khai là người Kitô từ đầu nên không bị hạch hỏi về đạo nhiều. Chúng tôi đã cực lực phủ nhận lời tố cáo làm phản nghịch mà chỉ nói rằng chúng tôi có mỗi một việc là học đạo và dậy đạo mà thôị Họ bắt đầu quay sang hỏi chúng tôi về giáo lý, đọc các kinh và cắt nghĩa các dấu chỉ. Lời cắt nghĩa của Thầy Mĩ đã làm cho họ thích thú hỏi han thêm. Các quan hỏi: ‘Ngươi thật vô lý, đã thấy hỏa ngục của thế giới mai sau chưa mà hiện giờ đang phải khốn khổ trong hỏa ngục tù đầy này. Các ngươi há không có thần chú bùa phép cho bớt đau sao? Các ngươi bị đánh đau hơn tất cả mọi người khác sao không thấy kêu la?’
Chúng tôi trả lời rằng chúng tôi chịu đựng mà không rên la để được phần thưởng. Dù các quan đánh đập nữa hay kết án tử chúng tôi cũng không giận dữ và không nguyền rủa các vị đâu. Chúng tôi rất sẵn lòng. Từ đó quan nói là không còn muốn kết án những người sung sướng được chết. Chúng tôi đồng thanh thưa lại: ‘Nếu quan muốn làm ơn thì chúng tôi không từ chối ơn được sống, nhưng nếu quan muốn đổ máu thì chúng tôi sẵn sàng, nhưng còn đạp ảnh thánh giá thì chúng tôi sẽ không bao giờ làm vì để được tự do mà phải làm như thế thì chúng tôi liều mình phải kết án đời đời cả xác lẫn hồn.’
Chúng tôi còn bị tra hỏi như thế hai lần khác nữa trước mặt rất đông lương dân đứng chật công đường, trong đó có 8 người giáo dân chối đạo."
Trong thư Thầy Mĩ không kể hết những điều quan tổng đốc Lê Văn Ðức đã hạch hỏi về đạo như đã có lệnh vua cấm sao còn theo, trong đạo có chuyện làm bùa mê, các đạo trưởng thông gian với phụ nữ, v.v... Thầy Mĩ đã thưa lại: "Thưa ba quan lớn, chúng tôi xả thân cầu đạo, nếu có khoét mắt người nào thì anh em con cái họ để chúng tôi sống chăng? Trong đạo chúng tôi có truyện đồi tệ như thế thì còn dậy bảo được ai. Mà nếu chúng tôi đi tu, nếu có ăn ở thể ấy thì vợ chồng người ta còn để chúng tôi đến nhà mình nữa chăng?"
Quan lại hỏi theo cố tây từ hồi nào và ở những đâu, Thầy Mĩ không thưa tên cố nào và ở nơi nào chỉ nói rằng: "Chúng tôi theo cụ tây mà đi giảng đạo, chúng tôi không thể chối đạo được, không dám bước qua thánh giá Chúa. Các quan muốn làm gì thì làm".
Khi các thầy bị đánh đau như vậy có người hỏi làm sao chịu được, Thầy Mĩ đã nói: "Khi phải đòn đến bất tỉnh rồi thì quân lính khiêng xuống cuối sân, rắc ít lá vào vết thương thì bớt đau và không sưng lên, nhưng mà chẳng cần phải có thuốc gì, vì giữ đức nhịn nhục và chịu khó bằng lòng là thuốc tốt hơn cả, vì sự ấy làm cho mình được thêm công trước mặt Ðức Chúa Trời. Còn các quan đánh hay làm khổ mà chúng tôi không dám kêu ca là vì cố ý muốn làm đẹp lòng Chúa".
Chính các thầy viết về cảnh sống trong ngục như sau: "Trở về ngục chúng tôi tiếp tục mang gông nặng và xiềng, phải chịu những hành hạ của lính canh. Chúng tôi phải ngửi mùi hôi thối trong nhà tù chật hẹp ẩm thấp, bao nhiêu những gai nhọn châm vào từ dưới chân lên đến đầu mà chỉ có chết mới được giải thoát. Rồi những vết thương nhức nhối vì tra tấn đánh đập. Bốn tháng đầu Thầy Mĩ và Ðường phải chịu như thế, còn Thầy Truật phải chịu khổ cực ít hơn, cho tới khi có án của Cố Cornay ngày 19-10-1837, và chúng tôi biết là bị kết án giảo giam hậu vì theo đạo Kitô".
Ban đầu ba thầy bị giam riêng biệt nhau, sau mới được ở chung để có thể an ủi nhau. Cha Triệu được vào trong tù để đưa Mình Thánh Chúa đã không chịu nổi mùi hôi thối khi ra ngoài đã bị ngất xỉu. Các thầy xin Cha Marette gửi cho một cuốn sách ngắm sự thương khó để suy ngắm chung với nhau. Mỗi ngày các thầy lần hạt tràng trăm rưởi. Với người đến thăm, Thầy Mĩ thường khuyên họ chịu khó giữ đạo và làm các việc bổn phận cho nên. Với người nhà, thầy để lại cho họ mấy lời di chúc sau đây: "Thứ nhất anh em hãy ở hòa thuận với nhau trong nhà cũng như ngoài làng, phải giữ đạo cho sốt sắng vì anh em không ở mãi dưới thế này. Thứ hai về phần tôi, Chúa đã định cho được chịu khổ tôi sẵn lòng, khi hành quyết thì anh em hãy lên, để anh em mình được nhìn thấy nhau lần sau hết, và sau đó thì đem xác về nhà quê để được ở gần với họ hàng. Thứ ba, về của cải cha mẹ để lại cho tôi thì xin chia hai phần, một phần anh em giữ lấy còn phần kia anh em dâng cúng vào nhà chung, vì nhà chung đã nuôi nấng tôi và bây giờ tiếp tục nuôi người khác giúp việc hội thánh".
Thầy Mĩ cố gắng thuyết phục những người đã chối đạo cùng bị giam song không thành công. Thầy cũng năng giảng giải đạo lý cho người bên lương. Thầy viết thơ cho Cha Marette tỏ lòng con hiếu thảo và nói lên quyết tâm trung thành xưng đạo tới chết. Thầy viết: "Vì mọi người đều biết con là thầy giảng đứng đầu và trông coi mọi việc trong nhà Ðức Chúa Trời nên họ đã tra vấn con nhiều. Con vui lòng chịu những khổ nhục dưới thế này để tránh hỏa ngục đời đời. Thánh Kinh đã chẳng viết là Chúa sửa phạt đứa con ngài yêu thương? Con vẫn không ngừng xin cho được ơn bền đỗ theo thánh ý Chúa".
Với các nữ tu đã từng giúp các thầy trong những ngày tu, Thầy Mĩ viết thơ cảm ơn, an ủi họ và khích lệ họ can đảm như bà mẹ Macabê chứng kiến các con mình chịu chết. Thầy khuyên: "Chớ gì những bà lớn tuổi và sốt sắng hãy tỏ lòng ưu ái tới những người yếu đuối mới gia nhập đời sống tu, sợ rằng những chị này nản lòng và bỏ ngay đời tu khi thấy cơn sóng gió nổi lên. Các chị cũng đừng bắt chước những người hão huyền thích được phô bầy trước mắt người ta như bông hoa mùa xuân. Trái lại các chị phải nhắc nhở mình luôn đến mục đích đã bỏ đời đi tu, không bận tâm đến nỗi khổ cực của cuộc sống, nhưng tự nguyện hiến thân làm vinh danh Chúa và cứu rỗi anh em đồng loại. Nhà của các chị được gọi là nhà thánh giá, hay thánh giá chính là triều thiên của mọi khổ cực. Các chị đừng lấy làm lạ được thông phần vào thánh giá. Khi vâng lời, các chị đã đi đúng đường lối của mình, đừng nghĩ rằng ngọn núi khác dễ dàng leo hơn. Trên hết các chị đừng mở đường cho mối bất hòa, nhưng nếu lửa bất hòa có đến thì chỉ có nước giập tắt được đó là sự đoàn kết".
Mùa thu năm 1838, triều đình có thói quen xét lại các vụ án mà không tra hỏi gì thêm. Ngày 17-12, bản án của vua đến tỉnh. Khi hay tin, Thầy Mĩ đang đan thúng liền bỏ đấy để lo dọn mình. Các thầy biên vội vào giấy gửi ra cho Cha Triệu và hẹn ngày phải hành quyết sẽ gặp nhau ở sân dinh quan để lãnh phép xá giải. Việc hành quyết đã không xảy ra ngay hôm đó vì nhằm ngày rằm tháng 11, mọi người kiêng cữ không muốn máu tội nhân đổ ra. Ngày hôm sau, lúc 10 giờ, ba thầy cùng bị điệu ra pháp trường Gò Sỏi với 16 tội nhân khác có 300 lính hộ vệ. Mỗi tội nhân có bốn lý hình đi theo: một người cầm bản án bằng gỗ, hai người cầm xích và gông và người cầm gươm đi sau. Sau cùng là người đánh phèng và hai sĩ quan cỡi voi. Các anh hùng xưng đạo vui tươi bước đi vững chắc, trong khi thỉnh thoảng giữa đám đông nghe thấy tiếng người nói to: "Xem kìa, toán lính của Chúa Giêsu".
Tới nơi xử, các binh sĩ làm thành vòng tròn chung quanh các tội nhân, trong khi lý hình sửa soạn hình cụ. Thầy Mĩ và Truật bị cột vào cọc gần nhau trên những tấm chiếu giáo dân đã trải sẵn. Các thầy nằm sấp giang tay ra và chân bị trói vào một cọc, sợi giây vòng qua cổ chờ đợi lệnh. Vào khoảng một giờ trưa, lệnh quan vừa phát ra, lý hình kéo giây thật mạnh, các vị anh hùng lắc lư cái đầu trong cơn hấp hối. Ngay sau đó quan đội đã thỏa thuận cho người Công Giáo lấy xác và đem các đồ vật của các ngài đặt ở bên, như giây thừng, xích sắt, bản án. Ðêm hôm ấy hai cha, hai thầy giảng, năm nữ tu và 30 giáo dân đã làm lễ an táng cho các vị tử đạo tại xứ Cao Mai. Suốt trong tám tiếng đồng hồ, 14 cây nến đốt chung quanh, hương trầm tỏa bay nghi ngút cho đến bốn giờ sáng thì các cha rút lui trước, trở về nơi trú ẩn quen thuộc. Xác các thầy được chôn trong gian nhà cuối của bà góa tên là Tín. Bảy tháng sau họ hàng Thầy Mĩ lên đưa xác về chôn ở Kẻ Non là nhà quê như lời thầy đã trối trăn.
Đã đọc: 549 |