 Stêphanô Nguyễn Văn VINH, sinh năm 1814 tại Phù Trang, Nam Ðịnh, giáo dân, Dòng ba Ða Minh, xử giảo ngày 19-12-1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 19-12.
Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh sinh tại làng Bồ Trang thuộc tỉnh Thái Bình. Ngài cùng quê với Thánh Mới và Thánh Ðệ. Ngài là một nhà nông chân thật, hiền lành và chịu khó. Vì kế sinh nhai ngài bỏ làng đến ở họ Kẻ Mốt thuộc xã Ðức Trai, làm mướn cho các chủ điền ở đấy. Mãi đến năm 25 tuổi ngài vẫn chưa lập gia đình.
Năm 1838, khi quân lính vây họ Kẻ Mốt, Cha Thánh Tự bị bắt. Quan cũng bắt dân chúng phải điểm mục. Khi dân chúng tụ họp tại đình làng, quan đặt mấy ảnh tượng để bắt dân bước qua hoặc bỏ đạo. Lúc bấy giờ ông Vinh mới đang học đạo và chưa được rửa tội nhưng ông cũng cùng số phận với dân làng. Rất nhiều người đã chối bỏ đức tin lúc đó. Quan cũng bắt ông Vinh phải bước qua thánh giá, nhưng ông không chịu mà còn quỳ xuống hôn kính thánh giá. Bực mình vì cách xưng đạo của ông Vinh, quan bắt ông đeo gông và mang xiềng xích, rồi giải ông về phủ cùng với Cha Tự và bốn ông Mậu, Mới, Ðệ, và Úy. Ông Vinh tỏ ra rất hãnh diện vì được kể là người Công Giáo. Thực ra ông không buộc phải coi mình là người Công Giáo vì ông chưa được rửa tội nên chưa chính thức thuộc về Chúa. Theo chứng thư của Thầy Mậu sau này thì khi bị giam trong tù, Thầy Mậu và Thầy Úy đã rửa tội cả trăm tù nhân ngoại giáo, người đầu tiên xin các ngài rửa tội là Thánh Nguyễn Văn Vinh. Quả thực đây là hồng ân Chúa ban để ông luôn coi mình là con của Chúa.
Khi giải về tỉnh, quan lại tra khảo ông như cũ. Ông vẫn một mực vững bền, và thưa cùng quan rằng: "Bẩm lạy quan lớn, thà chết chứ tôi không chịu bỏ đạo".
Ông lại bị tra tấn và giam lại trong ngục cùng với bốn Thánh Mậu, Mới, Ðệ, Úy. Như trong truyện các thánh trên, cả năm ông đều bị điệu ra tòa cùng một lượt mỗi khi quan lớn có lệnh triệu các ông hầu tòa. Có lần quan bắt ông Vinh bước qua thánh giá, ông quỳ gối trước tượng, ôm tượng thánh giá rồi đọc kinh to tiếng. Quan lớn bực mình lại truyền quân lính nọc ông ra đánh đòn, sau đó lại giải ông về nhà lao.
Trong thời gian tại nhà lao, ông Vinh cùng với bốn ông Mậu, Mới, Ðệ, Úy, xin khấn Dòng Ba Ða Minh. Các ông đã nhờ Thầy Mậu đại diện anh em để biên thư cho Cha Huân xin ngài nhận lời khấn của các ông.
Sau bao lần tra khảo ông và bốn anh em kia, quan thất vọng vì sự cứng đầu của các ông. Ngày 27-7-1838, các quan họp nhau làm sớ tâu vua xin phạt các ông 100 trượng rồi phát lưu các ông ra Bình Ðịnh. Ông và các bạn được xếp vào loại những người thờ cúng và làm nghề phù thủy. Sớ tới kinh thành, Vua Minh Mệnh thấy vấn đề không đơn giản như thờ cúng và làm phù thủy. Nhà vua truyền ngưng phát lưu các ông, nhưng phải khuyên bảo các ông bỏ đạo. Ai bỏ đạo thì được tha, ai không bỏ đạo thì bị xử giảo.
Ngày 5-9, Cha Tự và ông Cảnh bị xử trảm. Ông và các bạn lại lo sợ không biết mình có bền vững trung thành với Chúa không. Vì Cha Tự là chủ chiên của các ông, Chúa nhân lành đã cho Cha Tự hiện về sau ba ngày ngài bị xử trảm. Cha Tự khuyên các ông vững lòng, và lập nhiều công đức để chuẩn bị lãnh phúc tử đạo. Ông Vinh và các bạn càng gia tăng việc lành phúc đức trong tù.
Ngày 24-11, các ông lại bị điệu ra tòa và trải qua nhiều thử thách nào đe dọa, nào dụ dỗ, nào lôi kéo các ông qua thánh giá, nào chỉ cần các ông đi chung quanh tượng cũng đủ. Ông Vinh và các bạn vẫn trung kiên.
Ngày 19-12, chiếu chỉ vua ban ra truyền xử giảo ông và bốn anh em. Quan lớn vẫn thương các ông vì các ông hiền lành nhân đức. Quan tìm đủ mọi cách để cứu các ông, nhưng các ông không chịu chối đạo mà nhất định xin quan cứ theo chiếu chỉ vua mà xử tội các ông.
Ngày hành hình đến, ông Vinh bị điệu đi với các bạn. Thầy Mậu đi trước, sau đó đến đôi ông Ðệ và Thầy Úy, rồi đến đôi ông Mới và ông Vinh. Quan quân hộ tống rất đông, họ đưa các ngài tới pháp trường gần làng Cổ Mễ. Trên đường đi các ngài vui vẻ chào hỏi những người quen, không ai trong các ngài tỏ ra khiếp sợ. Tới pháp trường, các ngài bị xử giảo. Ðể chắc chắn các ngài đã chết, quân lính dùng đuốc lửa đốt chân các ngài. Có đứa còn lật úp xác các ngài xuống trên mặt đất. Sau đó lính đạp xác các ngài và chửi rủa các ngài bằng những lời thậm tệ để làm vừa lòng quan phụ trách việc thị sát cuộc hành hình.
Sau cuộc hành hình, bổn đạo nhặt xác ngài về táng ở họ Hương La thuộc xứ Tứ Nê.
Đã đọc: 599 |