Tin Vui
MỞ RỘNG | THU GỌN

Suy niệm Tin Mừng
Thứ Sáu tuần lễ 30  TN    Thánh hóa ngày lễ nghỉ (Lc 14,1-6)     
Thứ Năm tuần lễ 30  TN    Đáp lại tình yêu Chúa (Lc 13,31-35)     
Thứ Tư tuần lễ 30  TN    Chiến đấu qua cửa hẹp (Lc 13,22-30)     
Thánh Si-mon và Ta-đê-ô, tông đồ (28/10)  TN    Là Tông đồ giáo dân giữa đời (Lc 6,12-19)     
Thứ Hai tuần lễ 30  TN    Đức tin và lòng thương xót (Lc 13,10-17)     
CN 30 TN  Năm C    Lời nguyện vắn (Lc 18,9-14)     
CN 30 TN  Năm C    Lạy Chúa, xin thương xót con      (Dã Quỳ)
CN 30 TN  Năm C    Khiêm tốn     
Thứ Bảy tuần lễ 29  TN    Xét mình, đừng xét đoán (Lc 13,1-9)     
Thứ Sáu tuần lễ 29  TN    Nhận xét dấu chỉ thời đại (Lc 12,54-59)     
Thứ Năm tuần lễ 29  TN    Lửa tình yêu, lửa huyền siêu (Lc 12,49-53)     
Thứ Tư tuần lễ 29  TN    Chúa sẽ đền bù cân xứng (Lc 12,39-48)     
Thứ Ba tuần lễ 29  TN    Tỉnh thức là thượng sách (Lc 12,35-38)     
Thứ Hai tuần lễ 29  TN    Làm giầu trước mặt Chúa (Lc 12,13-21)     

Tìm kiếm nhanh
Theo tên bài hát
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9
Theo ca sĩ
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9

Tìm kiếm audio
Tìm
Theo
Tìm chính xác
Gần chính xác

Công cụ nghe nhạc

Để nghe nhạc, computer của bạn cần có:


Thống Kê
Nhạc phẩm: 5652
Số Ca Sĩ: 212
Thành viên: 360
Thành viên mới:
anhmayly
Đang online: 459
Khách: 459
Thành viên: 0
21/12  Thánh Simon Phan Ðắc Hòa


Simon Phan Ðắc HÒA, sinh năm 1787 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Y sĩ, xử trảm ngày 21-12-1840 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 21-12.

Cuộc đời của Thánh Simon Hòa nêu cao đức tin có sức làm cho con người trở thành một công dân lương thiện, một người cha đức độ, một tông đồ nhiệt thành và một lính chiến anh dũng bảo vệ đạo thánh. Theo chứng từ của người con gái cả, đã theo lời cha trối đi vào tu viện, thì ngài có tên là Phan Ðắc Thu, con vị công thần Lại Bộ Thượng Thư Phan Ðắc Thục. Mẹ ông tên là Ðóa, vợ lẽ của quan thượng thư. Sau khi cha chết, bà ngoại ngài tên là Can dẫn hai chị em ngài bỏ làng Mai Vĩnh, tỉnh Thừa Thiên, để về ở làng Lượng Kim, tỉnh Quảng Trị. Tại đây hai chị em được ông Tảo, một người Công Giáo đạo hạnh tại làng Nhu Lý, nuôi dưỡng. Năm ngài 12 tuổi, hai chị em được rửa tội gia nhập đạo Công Giáo và ngài lấy tên là Simon. Về sau bà ngoại ngài cũng trở lại đạo Công Giáo.

Thấy cậu Hòa học chữ nho giỏi và có tư cách thông minh, ông Tảo cho cậu vào nhà Ðức Chúa Trời ở với Cha Nhân và sau đó vào chủng viện An Ninh. Sau này bề trên biết được Thầy Hòa là con vợ thứ thì cho thầy về. Trở về thế gian, Thầy Hòa đã 30 tuổi, đến ở nhà y sĩ Phương để học nghề thuốc và sau lấy con gái ông tên là Yêm, 18 tuổi. Hai ông bà có cả thảy 12 người con, trong đó có ba cô con gái đi tu. Thầy thường dẫn con cái đi dự lễ và xưng tội. Buổi chiều thầy đọc sách đạo cho cả nhà nghe. Ngoài ra thầy còn có lòng bác ái hay giúp đỡ người nghèo, đặc biệt thầy hay nhường thức ăn của mình cho họ để chứng tỏ lòng quí trọng yêu thương họ nữa. Thầy làm thủ chỉ làng Nhu Lý, kiêm trùm họ về đạo và chánh trương hàng xứ.

Khi Vua Minh Mệnh bắt đạo, thầy làm nhà riêng, tường có hai lớp để các cha dễ trốn ẩn. Thừa Sai De La Motte từ khi về Nhu Lý thường ở với ông. Ngoài ra thầy còn cho người thăm nuôi Cố Jaccard ở Ai Lao và cả khi ngài về Cam Lộ, và sau khi Cố Jaccard bị xử tử thầy đem xác ngài về chôn tại Nhu Lý.

Lúc đó trong làng có sự bất thuận và dân làng không muốn chứa chấp đạo trưởng nữa vì dân ngoại đã phong phanh biết có đạo trưởng ẩn trốn tại làng. Một mặt thầy viết thơ cho Ðức Cha Cuenot cam kết trung thành với đạo, và liệu cách cho Cố Y ( De La Motte) trốn thoát. Thầy chỉ xin đức cha cầu nguyện cho thầy và xin đức cha mấy lời an ủi để mạnh sức xưng đạo nếu thầy bị bắt. Mặt khác thầy thu xếp với làng An Ninh để đưa Cố De La Motte sang bên đó. Ðêm ngày 12, rạng ngày 13-4-1839, thuyền của giáo dân làng An Ninh đến, thầy đem Cố Y xuống và mang theo Thầy Phê, bà Của, và chị Hậu để dễ bề thưa nói, làm như đò đi chữa bệnh. Dầu kín đáo việc ẩn lậu đã bị người ngoại biết được, nên khi đò vừa tới Hòa Ninh thì có lệnh hỏi đò ai, Thầy Hòa trả lời: - "Ðò tôi". - "Ðò tôi là đò nào?" - "Ðò thầy thuốc Hòa". - "Ðò nào thì đò cũng phải ghé lại".

Biết là nguy hiểm, thầy ghé bờ để cho Cố Y chạy trốn trước. Cố Y chạy đến làng Lệ Mông thì vấp chân té, những người đuổi theo đánh gậy vào đầu ngài làm máu chảy ra. Dân hai làng Lệ Mông và Lương Kim hiệp nhau bắt những người còn lại. Ðến sáng ông Hòa thu xếp chuộc tiền với hai làng, song họ sợ quan trên nên không dám nhận, họ đóng gông và giải tất cả về huyện Ðăng Xương. Quan huyện cũng cho lệnh bắt thêm ông xã Phêrô Duyên và sau này Thầy Gioan Trang cũng bị tố cáo nữa. Tất cả là 8 người bị giam tại huyện, rồi quan huyện giải lên tỉnh Quảng Trị.

Tin một đạo trưởng Âu Châu bị bắt ngay sát nách đế đô làm Vua Minh Mệnh tức giận, nghi hoặc không biết còn bao nhiêu thừa sai lén lút nữa. Cố Y bị giải về kinh đô ngay, Thầy Hòa và các người khác thì hai tháng sau mới bị giải về kinh đô.

Từ khi bị bắt, Thầy Hòa bầy cách cho mọi người phải khai thế nào cho hợp. Người con gái cả, sau làm bà dòng, đã đến thăm, Thầy Hòa nói: "Hãy về nhà với mẹ, chị em giúp đỡ lẫn nhau, còn số phận của cha không thể tránh khỏi cái chết".

Trong hai tháng bị giam ở Quảng Trị các con cái khác đều đến thăm, Thầy Hòa khuyên: "Cha rất vui mừng tuân theo thánh ý Chúa, các con đừng buồn. Mọi đứa phải vâng lời mẹ con, săn sóc cửa nhà tử tế vì cha không thể lo lắng gì hơn được nữa".

Trong thời gian ở nhà tù Quảng Trị, Thầy Hòa chỉ phải đeo gông tre nhẹ và được mọi người kính trọng, được tự do đi lại.

Về nhà tù ở trấn phủ tại Huế, Thầy Hòa vẫn vui vẻ dọn mình lãnh triều thiên tử đạo. Có người học trò đến thăm, thầy khuyên: "Con đến thăm lần này đủ rồi, đừng đến nữa kẻo lính bắt, các con không chịu được các hình khổ. Sáng chiều con hãy đọc kinh và xin Chúa cho thầy được chịu chém vì đạo thánh Chúa. Khi đầu thầy rơi xuống rồi thì trò hãy năng đến thăm viếng an ủi bà và các con cái thầy. Các trò, thầy cũng coi như con và sẽ theo để phù giúp trên đường đời gian nan".

Thầy luôn luôn khuyên bảo các người cùng bị giam mạnh sức xưng đạo và vui lòng chịu khổ vì Chúa. Các quan cũng đến dụ dỗ thầy chối đạo để được về với vợ con, thầy nói: "Dầu tôi phải mất vợ mất con mất hết của cải và cả sự sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ".

Lần khác quan đến cột thánh giá vào chân rồi hô lên là Thầy Hòa chối đạo, Thầy Hòa la to hơn rằng đó là việc quan làm chứ ngài không ưng chịu. Tại nhà tù trấn phủ, Thầy Hòa phải đeo gông nặng hơn, tuy vẫn được các quan kính nể. Thầy cũng xếp đặt mọi cách để giúp Cố De La Motte nhưng quan giam biệt và cấm mọi liên lạc, phải ăn uống cơm của lính dọn cho tù. Cha De La Motte không chịu đựng nổi các khổ cực tra tấn và của nhà tù nên ngài đã chết trong tù ngày 3-10-1839 sau 6 tháng bị giam tù.

Chúng ta không được biết Thầy Hòa bị tra tấn bao nhiêu lần, riêng tại trấn phủ, người con trai tên Hưng nói là thầy bị tra tấn ba lần, mỗi lần 40 roi và bị kìm kẹp nữa. Có sách viết ngài bị tra hỏi hơn 20 lần. Có lần bị kẹp đau quá ngài xin quan cho phép nói vài lời. Ðược phép, ngài trình bầy các lý lẽ làm chứng đạo Chúa là đạo tốt lành chân thật. Người lương cũng đến dụ ngài bỏ đạo, nhưng ngài khuyên lại họ: "Ðạo tôi dậy chẳng những là phải giữ trong lòng, mà còn phải giữ bề ngoài và xưng ra trước mặt vua quan. Ðạo cũng cấm lừa dối cho nên tôi có chết cũng không bao giờ nói dối hay bỏ đạo theo lệnh vua được".

Khi thầy Hòa bị giam ở trấn phủ, có lần vợ bồng đứa con nhỏ đến thăm, thầy ôm hôn nó vào lòng nói: "Khi cha bị bắt con mới có một tháng mà bây giờ đã tập tễnh biết đi".

Với vợ hiền, thầy trối trăn: "Hãy can đảm đừng buồn sầu vì số phận tôi phải chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Hãy xem việc gì đã xảy ra cho ông ký Ðạo bị giam tù chết vì bệnh thổ tả chẳng được lợi ích gì. Hãy khuyên bảo con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng, tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về phần các học trò của tôi hãy coi chúng như con vậy. Tôi đã chỉ dậy cho y sĩ Khiêm nhưng chưa giúp gì cho trò Thiện, vậy hãy tỏ tình thân ái và sau khi tôi chết đưa áo tang, giầy và khăn tang nếu bố của nó đồng ý, nếu bố nó không chịu thì thôi".

Sau lần gặp gỡ vợ con này, Thầy Hòa nghe biết Minh Mệnh muốn bắt vợ con ngài, Thầy Hòa không còn được gặp lần nào nữa.

Sau cùng các quan Bùi Ngọc Quí và Võ Xuân Cẩn đã làm án cho Thầy Hòa. Nội dung bản án như sau: "Có lệnh cấm tà đạo nghiêm nhặt thế mà đạo trưởng Âu De La Motte vẫn mang theo các sách và đồ đạo lén lút ở trong nước để gieo rắc những sai lầm. Tên Phan Ðắc Hòa người bản xứ theo đạo Giatô đã chứa chấp đạo trưởng De La Motte trong nhà, cả gan làm tường hai lớp và có hầm để ẩn giấu. Hơn nữa khi bị lộ còn đem thừa sai đi trốn ở nhà mụ Khiêm, nhiều lần đến thăm và sai cháu là Thị Hậu cùng với người nhà tên Diên đến thăm nuôi. Ngoài ra còn sai tên Truật theo hầu, dẫn đường cho đạo trưởng... Sau nhiều lần tra hỏi không những nó đã thú nhân sự thật mà còn sẵn lòng chịu chết. Thật không thể thoát khỏi hình phạt. Sau đó theo những lệnh của đô sát viện cấm người Âu Châu ban hành năm Minh Mệnh thứ 16... người chứa chấp cũng chịu một hình phạt như đạo trưởng Âu. Một lệnh khác truyền rằng những người rao giảng tà đạo phải xử giảo chờ lệnh. Theo vụ án xử hai đạo trưởng Âu Trùm Cả và Trùm Hai ở Nam Ðịnh bị xử trảm quyết và bêu đầu. Các vụ án xử Ðỗ Văn Chiểu và những người khác phải tốc hành trảm quyết. Vậy chúng tôi phải áp dụng hình phạt như cho Trùm Cả và Trùm Hai cũng phải áp dụng cho đạo trưởng Âu De La Motte. Người chứa chấp là Phan Ðắc Hòa cũng phải chịu chém đầu và bêu đầu để làm gương cho người khác khiếp sợ".

Ngày 13-11, chúng tôi các thượng quan bộ hình Lâm Duy Ngãi, Lí Bá Tú và Nguyễn Duy Chánh vâng lệnh Hoàng Thượng phê án: Tên Phan Ðắc Hòa, người bản xứ đã chứa chấp đạo trưởng Âu De La Motte, đào hầm và xây tường hai lớp để dễ trốn tránh. Thường xuyên trợ cấp và thăm viếng. Với tội phạm táo bạo như thế còn tìm hình phạt nào khác? Vậy chúng tôi truyền phải đem tên Phan Ðắc Hòa chịu gươm đâm và cắt đầu bêu cho dân chúng khiếp sợ.

Ngày 21-12-1840, quan lãnh binh và quan bộ dẫn 30 lính đến đem Thầy Hòa đi xử. Quan bộ cỡi ngựa đi đầu rồi đến quan giám sát, Thầy Hòa đeo gông vắn đi giữa 4 tên lính cầm gươm sẵn sàng và ở giữa hai hàng lính, trước mặt thầy một tên lính cầm bản ghi án. Một tên khác đi sau cầm gươm dùng để chém. Khi Thầy Hòa ra khỏi cửa thành có ba tiếng trống và quan tuyên đọc bản án. Khi đoàn người đến chợ An Hòa thuộc họ Ðốc Sơ, quan giám sát truyền lệnh dừng lạị Ông Quán trải hai tấm chiếu xuống đất và một tấm vải trắng để Thầy Hòa quì lên trên. Từ khi bước ra khỏi tù, khuôn mặt Thầy Hòa vẫn điềm nhiên và chiếu rạng vui tươi. Theo qui định trước, Cha Ngôn sẽ đứng đàng sau ông quan để ban phép giải tội cho Thầy Hòa. Lúc ấy Thầy Hòa biết chắc có Cha Ngôn liền quì xuống thống hối để đón nhận phép giải tội trong khi quan ra lệnh cởi gông và trói tay sau lưng. Bỗng nhiên quan giám sát ra lệnh ngưng lại và truyền một tên lính chạy về nhà từ trấn phủ lấy thánh giá ra để ép Thầy Hòa đạp lên. Ðặt thánh giá dưới đất trước mặt Thầy Hòa, quan khuyên: "Ðất ngươi ở, cơm ngươi ăn, nước ngươi uống thuộc về ai? Ngươi là tôi tớ của ai? Vậy mà Hoàng Ðế truyền lệnh ngươi dám từ chối không vâng lệnh. Vậy nếu ngươi không vâng lệnh, không đạp ảnh dưới chân chắc chắn ngươi phải chết, ngươi không thể mạnh hơn vua. Tốt hơn ngươi đạp ảnh đi và được trở về nhà với vợ con rồi ta sẽ cho ngươi tự do giữ đạo mà không sợ roi vọt bắt bớ về sau nữa. Nào đạp ảnh đi".

Thầy Hòa thưa: "Tôi thờ kính một Thiên Chúa và tôi cầu xin được trung thành phục vụ ngài đến cùng. Tôi không đạp ảnh".

- "Ngươi không muốn đạp ảnh thì hãy cầm lên đi và ném xuống đất ta cũng sẽ tha cho".

- "Việc này không gọi là trung thành với Chúa được. Tôi xin cám ơn vua và quan lớn, xin hãy áp dụng hình phạt vua đã truyền xử tôi và đừng nài ép tôi nữa, không ích gì đâu".

- "Tất cả mọi sự đã sẵn sàng xử ngươi".

- "Vậy đủ rồi, hãy kết thúc đi".

Các lý hình lại trói tay thầy Hòa và quan giám sát đọc lại bản án viết trên thẻ gỗ và ra lệnh sau tiếng trống thứ ba thì chém đầu. Thế nhưng mới tiếng trống thứ nhất, lý hình đã chém đầu thầy gần rơi khỏi cổ. Chúng lấy gươm cắt đứt đầu khỏi cổ và tung lên trời cho mọi người xem thấy. Ðầu rơi xuống đất ngay chỗ xác ngài. Sau đó các quan và lính rút lui còn lại một mình quan đội canh cái đầu. Sau quan đội giao cho làng Ðức Sơ ngoại đạo để bêu đầu đủ ba ngày. Mọi việc hoàn tất vào lúc quá nửa trưa. Các người lo việc an táng lấy vải cuốn xác giữ lấy chờ khi lấy được đầu sẽ mang về chôn ở Nhu Lý.

Đã đọc: 801


Đăng nhập

Nhớ cookie?

Quên mật khẩu
Đăng ký mới

Hình thành viên


louisho

Bài Mới Đăng
CN 30 TN C: Khiêm tốn, không khinh chê ...
CN 30 TN C: Công chính và khiêm tốn
CN 30 TN C: Cầu nguyện trong khiêm tốn
CN 29 TN C: Nhìn mọi sự bằng góc nhìn ...
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
CN 27 TN C: Để Đức Tin Lớn Mạnh
Mẹ Mân Côi: Sẵn sàng đón nhận và can ...
CN 26 TN C: Bệnh vô cảm
CN 26 TN C: Sẵn một vực thẳm
CN 26 TN C: Nhạy bén trước điều tốt - ...

Nghe nhiều tháng 10
8. Điều đó rồi cũng qua đi
CN 4 TN B: Giải thoát sự dữ
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
Mùng 2 Tết: Đạo hiếu
CN 29 TN B: Chỗ nhất trên Nước Trời
23. Thánh Augustinô: Chúa ở trong con; còn ...
Mùng 1 Tết: Xin Chúa chúc lành
Lời kinh tuyệt vời
Lễ GS: Quà tặng Giáng Sinh
Mùng 1 Tết: Đừng lo lắng

Đọc nhiều tháng 10
Sự tích trái sầu riêng
Những niềm vui nhỏ
Ba câu chuyện cuộc đời của Steve Jobs
Chuột nhiều vô kể
Bài giảng trên núi
Sự tích cái chổi
Vàng lấy con vua
Nợ như chúa chổm
Lá thư cuối cùng của người lái xe tải
Lầm lẫn mà thôi


Album mới

 CN 31 TN năm C 3

 CN 30 TN năm 3

 CN 29 TN năm C 3


  Dòng Đa Minh Việt Nam
  Vietcatholic
  Kinh Thánh Các Giờ ...
  Gx. Đa Minh
  Dòng Đồng Công
  Công Giáo Việt Nam
  Tuổi mực tím

Trang chủ -|- Thành viên -|- Hướng Dẫn Sử Dụng -|- Tìm Kiếm