Con ta đây đã chết mà nay sống lại
 Sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu là “cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài không ngại hòa mình với hạng người tội lỗi và ăn nhậu với họ, làm xốn mắt những ông Pharisêu. Các ông này tự xem mình như người công chính và khinh miệt những người tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu cho họ biết rằng, Ngài không như họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để chứng minh rằng:
Thiên Chúa vẫn thương những người tội lỗi và muốn cứu vớt họ.
Thánh Luca đã gom lại trong một chương những dụ ngôn về lòng thương bao dung của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta chỉ chú trọng đến dụ ngôn người cha nhân hậu mà thôi.
Ai trong chúng ta cũng quá quen thuộc với dụ ngôn này, vì thế chúng ta có cảm tưởng là đã biết rồi. Nhiều người còn cho là nhàm chán. Nhưng lời Chúa vẫn luôn mới đối với tâm hồn muốn tìm Chúa. Cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi sâu vào Lời Chúa và tìm thấy những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay.
Dụ ngôn chứa đựng rất nhiều bài học “sống” cho chúng ta.
Gia đình của chàng thanh niên phung phá này là một gia đình khá giả, chỉ có ba cha con. Không thấy nói đến bà mẹ. Người phụ nữ Do Thái nắm một vai trò rất khiêm tốn. Tất cả đều do quyết định của người chủ gia đình. Hay là bà mẹ đã qua đời. Hai đứa con trai lớn lên, thiếu tình mẹ. Vì thế đứa con trai út đã trở thành “ngông”, không muốn ở nhà với cha, ra sống giữa đời tự do hơn và vui hơn.
Theo tục lệ Do Thái, khi con đã trưởng thành, đủ mười tám tuổi, có quyền xin chia gia tài. (Ở Việt Nam không có quuyền đó). Người cha, dù có thương con, chắc không muốn cho con mình rời xa mái gia đình, cũng phải chiều theo ý con thôi.
Đứa con út, khi đã nắm tiền trong tay, tha hồ tung hoành.
Khi sa cơ thất thế, mới biết mình “ngông”, nhưng không còn cách nào, phải đi làm thuê để sống. Chúa Giêsu đã chú ý đến từng chi tiết.
Nó không thể làm thuê cho người Do Thái vì nạn đói đang hoành hành, không ai mướn. Anh phải xin làm thuê cho một người giàu trong vùng, không phải là người Do Thái. Đó là một sự nhục nhã đối với một người Do Thái.
Nó làm việc gì?
Chăn heo. Đây lại là một điều nhục nhã lớn lao hơn, vì đối với người Do Thái, con heo là một con vật ô uế hơn bất cứ con vật nào. Chạm tới con heo là nhiễm uế, thế mà nó phải chăn heo, dọn chuồng heo… Tình cảnh của chàng thanh niên này thật đốn mạt! Như thế là tận cùng! Đốn mạt hơn nữa, là anh muốn ăn của heo ăn mà không ai cho.
Xưa kia, cậu là một chàng thanh niên giàu có, một công tử, hôm nay là một tên đầy tớ chăn heo. Không có cái nhục nào bằng!
Trong cảnh nghèo nàn cơ cực như thế, anh mới hồi tưởng lại cảnh gia đình, đến cuộc sống ấm no ở gia đình. Anh quyết định trở về nhà.
Quyết định của anh không trong sạch cho lắm vì nó bị thúc đẩy bởi cơn đói và sự nhục nhã khôn cùng chứ không do tình yêu.
Điều này càng làm nổi bật lòng nhân hậu và tình thương của người cha. Ông không cần biết điều gì khác, ông chỉ vui mừng vì con ông đã trở về. Tình thương của ông là vô điều kiện.
Chính người cha đi đến với con trước. Ông chạnh lòng thương, ông chạy ra, ôm lấy con, hôn lấy hôn để. Chúa Giêsu muốn nói đến từng chi tiết để chúng ta thấy được tình thương của Cha chúng ta. Cha trên trời thương chúng ta như thế đấy, chúng ta có nghĩ đến tình thương đó không? Chắc cũng có nhưng nhiều lúc chỉ nhớ qua loa, không chú ý bao nhiêu.
Biết và chú ý là hai điều khác nhau. Vì thế mà chúng ta không cảm thấy hạnh phúc và không hiểu được hạnh phúc của mình. Đôi khi, trong những lúc yên lặng, chúng ta nên nhìn lại khuôn mặt đáng yêu của Cha trên trời. Chúng ta sẽ thấy êm đềm và an ủi. Trầm lắng để chìm sâu vào tình yêu của Cha, đó là một niềm hạnh phúc lớn cho chúng ta.
Cuộc hội ngộ cảm động làm sao!
“Mau đem áo đẹp nhất cho con ta” vì con ta không còn là một tên đầy tớ nghèo mạt tả tơi nữa. “Hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cho cậu”. Tại sao lại chú ý đến chiếc nhẫn? (Theo tục lệ Do Thái, những gia đình quyền quí luôn làm một chiếc nhẫn cho con cái, trên đó có khắc tên của gia đình. Mất chiếc nhẫn đó là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà). Người cha để ý đến chiếc nhẫn, không thấy trên tay cậu. Nó đã bán đi mất rồi. Nó không còn quyền làm con nữa, vì thế, ông trao cho con chiếc nhẫn khác tức là trả lại cho đứa con sa đọa của ông quyền làm con trong gia đình.
Ông mở tiệc ăn mừng. Sự trở về của đứa con phung phá đã trở thành niềm vui cho gia đình, và hàng xóm được mời đến chia vui. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Cả thiên đàng vui mừng khi một người tội lỗi trở về”.
Niềm vui này là niềm vui của tình yêu. Vì nhờ tình yêu mới giúp ta tìm lại được niềm vui. Chúng ta có biết, khi chúng ta trở về, Cha trên trời vui như thế nào không? Nếu chúng ta không thuộc về hạng đứa con phung phá, chúng ta hãy tìm hết cách để kêu gọi những người anh em, những người đang sống “đối nghịch với thập giá” trở về với Cha. Hay chúng ta giống như người con cả, thấy Cha mừng vì em mình trở về lại tức giận? Đó là thái độ của Pharisêu, tự cho mình là công chính và chà đạp người tội lỗi “thằng con khốn nạn kia của cha”.
Chúa Giêsu muốn cho mấy ông Pharisêu thấy rằng người tội lỗi không là đồ bỏ đi mà là đối tượng của tình yêu luôn cứu vớt của Cha trên trời.
Đứng trước thái độ cự tuyệt của người con cả, người cha lại ra năn nỉ anh, mời gọi anh vào niềm vui của sự tha thứ. Ông cho thấy rằng của cải không là cái gì quan trọng “mọi sự của cha là của con”, con đâu mất mát gì đâu! Nhưng đối với cha, đứa con của cha mới đáng giá. Chúng ta có thấy giá trị của chúng ta trước mặt Cha trên trời không?
Chúng ta chỉ là tro bụi, hơn nữa, chúng ta tội lỗi xấu xa, thế nhưng Cha trên trời luôn năn nỉ chúng ta.
Sự độ lượng và lòng nhẫn nại của người cha đã đem lại một nguồn vui mới là hai anh em được hòa thuận với nhau. Ở trần gian này có được bao nhiêu người cha độ lượng như thế? Hơn thế nữa, Ngài dám ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài để hòa giải những đứa con ngỗ nghịch với Ngài, để chúng ta được hoàn toàn hạnh phúc với Ngài.
Làm sao tạ ơn Cha cho hết được!
Và đền đáp lại tình thương vô bờ bến của Cha, chúng ta “hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời, để mọi người nhìn thấy những việc làm của chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời”.
Niềm vui của chúng ta là được đoàn tụ quanh Cha để tạ ơn Cha cùng với Chúa Giêsu. Người Cha kia đã giết con bê béo để ăn mừng, Cha trên trời cho chúng ta ăn chính Con Một của Ngài để chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài và tận hưởng niềm vui bất tận trong nhà Cha muôn đời: “Ta đến để niềm vui của anh em được trọn vẹn”.
Đã đọc: 211 |