Maria, Trinh Nữ của Niềm Vui: Vui vì Biết Yêu
Thứ năm - 19/03/2015 13:30
Mẹ thăm viếng
Ðối với Ðức Maria, khi nghe tin người chị họ tuy đã già lại mang thai con trai, liền tự ý đến để phục vụ, không cần phải mời. Lời tuyên xưng đưc tin của Ðức Maria: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38) không những đã vươn cao lên Thiên Chúa, nhưng còn mở rộng ra tới đồng loại.
“Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy?” (Lc 1:43)
Tình yêu là một chủ đề đã, đang, và sẽ còn được bàn thảo đến muôn đời. Sinh ra làm người, tự nhiên ai cũng muốn yêu và được yêu. Thánh Kinh cho biết rằng con người đã được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (St 1:26; 9:6), mà Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4: 7, 8). Do đó khát vọng yêu thương là một bản năng tự nhiên của con người.
Vì yêu là một bản tính tự nhiên của con người, nên ông Xuân Diệu mới nói rằng: “Tôi đã biết yêu từ khi chưa có tuổi." Ðiều này có nghĩa là ngay từ khi vừa mang lấy mầm mống của sự sống trong lòng mẹ, con người tự nhiên đã mang lấy một nhu cầu muốn yêu và được yêu.
Tuy nhiên, yêu cũng có trăm ngàn cách yêu, mỗi người mỗi cách. Sống và yêu là những bài học con người học mãi vẫn chưa biết hết. Nhưng nói rằng “biết yêu” thì thật là quá đáng! Tôi e rằng khi người bạn trẻ dùng câu nói của ông Xuân Diệu là để biện minh cho những tình cảm đam mê bừa bãi, lãng mạn, thiếu sự tự chủ của mình. Nhiều người dường như đã đồng hóa việc “biết yêu” với việc biết làm tình, hưởng khoái lạc sinh lý mà thôi! Yêu như thế chỉ mang lại khoái lạc mau qua, chứ không tạo nên niềm vui sướng cao quý của tinh thần và tâm hồn.
Tôi cũng nghe các bạn trẻ nói: “Yêu thì khổ. Không yêu thì lỗ. Thà chịu khổ chứ không chịu lỗ.” Khi đưa tình yêu lên bàn cân để tính toán xem lời hay lỗ, thì tự hỏi không biết có phải là tình yêu đích thực hay không? Tình yêu nhắm vào sự ích kỷ của mình hay vì tha nhân? Linh mục Anthony de Mello đã bàn đến những tình yêu giả hiệu, hay bác ái ngụy trang như sau:
“Bạn bảo rằng không bao giờ mình có thể giả dối khi mà mình đang thật sự cố gắng yêu thương và thành tín? Nào bạn hãy để tôi giản lược vấn đề này. Có ba loại ích kỷ. Loại thứ nhất là ta dành cho mình cái khoái lạc của việc làm thỏa mãn chính mình. Ta thường gọi loại ích kỷ này là quy ngã. Loại thứ hai là ta dành cho mình cái khoái lạc được làm thỏa mãn người khác. Ðàng nào bạn cũng tìm khoái lạc của bạn, khác chăng là bây giờ khoái lạc ấy của bạn nằm trong cái khoái lạc làm vui lòng người khác. Ðây là một loại ích kỷ tinh tế hơn, rất kín ẩn, khó thấy và do đó nguy hiểm hơn. Bởi vì trong trường hợp này ta dễ cảm thấy mình rất cao thượng. Nhưng mổ xẻ tới cùng thì té ra ta chẳng cao thượng tí nào. Loại thứ ba, loại ích kỷ tệ hại nhất: bạn làm điều tốt để tránh cảm giác khó chịu. Bạn bực dọc chứ không khoan khoái để làm nó. Bạn ghét nó. Bạn vừa hy sinh vừa quằm rằm. Ấy! Bạn chưa biết mình bao nhiêu đâu, nếu bạn cho rằng mình không phải là người như vậy!” (Thức Tỉnh, Awareness, tr. 22, 28, 29).
Muốn yêu và được yêu là nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng tình yêu cũng phức tạp như con người. Biết yêu cho đúng là điều không dễ dàng. Nhất là yêu như Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa: “Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh vì tình yêu đích thực luôn đòi hy sinh. Ðó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm cho các bạn đau khổ.” (Con Tim Tràn Ðầy Yêu Thương, One Heart full of Love, Thiên Phúc dịch, tr. 17).
Hơn thế nữa, yêu như Chúa Giêsu đòi buộc: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; 15:12). Và chúng ta biết rất rõ Người đã yêu thương chúng ta như thế nào. Người đã chết cho chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13). Người đã ban Mẹ Người làm Mẹ chúng ta trước khi chết (Ga 19: 25-27). Chính Mẹ Maria là mẫu mực của tình bác ái yêu thương đích thực để chúng ta noi theo.
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1:39-45).
Ðối với Ðức Maria, khi nghe tin người chị họ tuy đã già lại mang thai con trai, liền tự ý đến để phục vụ, không cần phải mời. Lời tuyên xưng đưc tin của Ðức Maria: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38) không những đã vươn cao lên Thiên Chúa, nhưng còn mở rộng ra tới đồng loại. Ðức Maria là đầy tớ của Thiên Chúa, của Tin Mừng, thì đồng thời cũng là đầy tớ của những người thân cận, hàng xóm láng giềng. Chúng ta nhận ra Ðức Maria đã hiện diện không chỉ ở nhà ông Dacaria với bà Êlisabét, mà còn ở tiệc cưới Cana để giúp đỡ công việc nhà và chuyện nấu nướng nữa. Bởi ân sủng của Thiên Chúa và lòng thương mến đích thực, Ðức Maria đã cảm thấy đây là một lời mời gọi phục vụ những ai cần đến Mẹ.
1- Yêu là trao ban phúc lành:
“Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc 1:40). Sự chào hỏi ở đây mang một ý nghĩa rộng hơn là phép lịch sự hay niềm vui mừng của những người bạn cũ, họ hàng thân thích gặp nhau. Lời chào hỏi của Ðức Maria, như nữ tử Sion, chính là lời chúc phúc và dấu chỉ của niềm hy vọng mà người Do Thái ngày xưa thường chúc cho nhau: Shalom, Bình an! Ðây là một phúc lành, vì ở giây phút này niềm hy vọng của dân Israel được hoàn tất. Ðức Maria đang mang trong mình Hoàng Tử của Bình An, Ðấng mang lấy thân xác và điều kiện của con người để tạo nên niềm vui và an bình trong tâm hồn mọi người. Sự viếng thăm và lời chào hỏi của Ðức Maria chính là những dấu chỉ của phúc lành và sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua Ðức Maria, bà Êlisabét đã đón nhận những phúc lành của Ðấng Cứu Thế.
Lúc đầu, người Do Thái thường chào nhau bằng chữ “shalom”, “bình an”: “Chúc bạn được bình an, chúc gia đình bạn được bình an, và chúc bạn vạn sự bình an” (1 Sm 25: 6; Lc 10:5). Còn người Hy Lạp dùng chữ “charein”, “ân phúc”, “mừng”, “chào” (Lc 1:28; Mt 28:9). Thánh Phaolô đã biến đổi những cách chào quen thuộc này thành một cơ hội chia sẻ đức tin: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1:7; 1 Cr 1:3; 2 Cr 1:2; Gl 1:3; Eph 1:2; Pl 1:2; Tit 1:4). Theo thánh Phaolô, chúng ta không thể có bình an nếu không có ân sủng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, có sự hiện diện của Thiên Chúa là có tất cả mọi phúc lành. Do đó, lời chào hỏi của người Kitô hữu với nhau: “Chúa ở cùng anh chị em” đã trở nên một lời ngợi khen Thiên Chúa và trao ban phúc lành cho nhau.
Lời chào của Ðức Maria là một phúc lành và cầu chúc đầy sức mạnh: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên” (Lc 1:41). Qua Ðức Maria, một người đã được chọn lựa để chuẩn bị đường lối cho Thiên Chúa đến đã gặp gỡ với Ðức Giêsu. Gioan Tẩy Giả đã đáp trả lại lời chào ấy bằng sự hoan lạc. Sự bình an và hoan lạc là dấu chỉ của thời đại Thiên Sai.
Khi Gioan nhảy lên vui mừng, thì chính bà Êlisabét “được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Trong giây phúc ân sủng này, bà Êlisabét đã được Chúa Thánh Thần linh hứng để khám phá ra ý nghĩa sâu xa của sự thăm viếng của Ðức Maria. Bà Êlisabét đã đáp trả lại bằng lời ngợi khen những việc Thiên Chúa đã làm nơi Ðức Maria, một Evà mới mang đến cho chúng ta một Adong mới, Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc nhân loại.
Mỗi lần chúng ta đọc kinh Kính Mừng, chúng ta hiệp lòng ý với sứ thần và bà Êlisabét để ca ngợi tất cả những việc Thiên Chúa đã thực hiện nơi Ðức Maria.
Với lòng yêu mến Thiên Chúa và thương người đích thực, lời chào hỏi của người Kitô hữu là một phúc lành mang sức mạnh của Thần Khí xuống. Thế nhưng, trong thực tế nhiều khi lời chào hỏi của chúng ta lại chỉ là môi miệng bề ngoài mà trong lòng chúng ta mang đầy sự ghen tương, ganh tị, và thù ghét. Trong cuốn sách “Người Trung Hoa Xấu Xí”, nói về những tật xấu của người Trung Hoa, tôi nghĩ rằng có cả người Việt Nam ở trong đó nữa, ông Bá Dương nói về lòng ghen tị và độc ác của một người bạn khi đến thăm viếng nhà người bạn khác như sau:
“Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Ðằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu trụi cái nhà nó đi cho rồi!” (Bản dịch Nguyễn Hồi Thủ, Văn Nghệ, tr. 89).
Ðối với người Việt Nam, tôi cũng nghe dân gian nói rằng: “Tổ quốc với chẳng tổ cò, nơi nào no ấm ta dò ta bay!” Mãnh lực của đồng tiền đã thu hút lòng dạ con người hơn là tình tự dân tộc, để rồi như cổ nhân đã nói: ”Càng quen càng lèn cho đau”. Câu tục ngữ này rất đúng khi áp dụng vào thực trạng đau xót của người Việt đồng hương đối xử với nhau không chút tình thương trên xứ lạ quê người: “Càng đồng hương thì càng bị chém nặng!”
Thực thế, một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình (Ga 10:11; 15:13). Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đành tháo lui. Hoặc chỉ giả đò, đóng kịch, bác ái ngụy trang.
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard, sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bạn bè. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.”
Tình yêu thương chân thành và đích thực mang lại niềm vui chứ không phải xấu hổ như câu chuyện của chàng ca sĩ nhạc pop Cliff Richard. ÐGH Gioan XXIII đã chia sẻ một cách rất chân thành rằng: “Lòng tốt đã làm cho cuộc đời của tôi hạnh phúc.” Niềm vui không thể tìm thấy bằng việc thống trị, hay chỉ thương hại người khác, nhưng bằng tình yêu thương thực sự qua những phúc lành và sự cho đi.
2- Yêu là cho đi:
Yêu là cho đi “cho đến khi nó trở thành một sự hy sinh” như Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói. Không có sự hy sinh nào quý bằng chính sự dấn thân để phục vụ. Ðức Maria đến để phục vụ, nhưng đồng thời cũng mang Chúa Giêsu, Ðấng đem lại niềm vui và sự bình an cho gia đình ông Dacaria và nhân loại.
Ðức Maria được mang danh hiệu là căn nguyên của niềm vui, “Ðức Bà làm cho chúng con vui mừng”, vì Ðức Maria đã thực sự mang Chúa Giêsu đến cho chúng ta. Triết gia người Mỹ, Ralph Waldo Emerson (1803-1882) đã kể câu chuyện sau đây:
Vào một ngày rất nóng nực và oi bức, ông Ralph Emerson đang phải ngồi trên một chiếc toa xe lửa mà mọi người đều cảm thấy bực bội và chán chường. Tại một trạm ngừng để rước khách, một phụ nữ trẻ bồng con thơ bước lên. Sau một lúc người mẹ vui đùa và chơi với bé thơ, làm cho tất cả hành khách đều tập trung vào sự vui tươi, ngây thơ và hồn nhiên của em bé. Quả nhiên, sự nặng nề bực dọc của những người hành khách đã được cất đi, họ bắt đầu mỉm cười và trò chuyện với em bé.
Vì yêu thương nhân loại, Ðức Maria đã cho chúng ta tất cả, cho cả chính Người Con yêu dấu của mình. Bước theo Ðức Maria, Chị Têrêsa thành Lisieux đã diễn tả cái nghệ thuật yêu thương này một cách rất đậm đà: cho tất cả mà vẫn có cảm tưởng chưa cho gì hết. Trong cuốn Một Tâm Hồn, Thánh Nữ đã viết:
“Khoa học tình yêu. Ôi! Hồn tôi cảm thấy những từ ấy êm dịu chừng nào! Tôi chỉ ao ước học một khoa học ấy thôi. Ðối với khoa học này, dù tôi đã cho tất cả bảo vật của tôi, như lời hôn thê trong sách Nhã Ca, thiết tưởng tôi vẫn chưa cho gì cả”. (Khoa Học Tình Yêu, John Wu, Thạch Sơn, Dziễm 1997, tr 13).
3- Yêu là sống hòa hợp với:
Khi yêu ai, người ta thường muốn được ở gần, bên cạnh người mình yêu, quấn quít bên nhau mãi, không bao giờ muốn rời xa. Ðây là đặc điểm nổi bật của người Việt Nam thích sống gắn bó với gia đình, vợ chồng con cái, cha mẹ anh chị em họ hàng, quê cha đất tổ, làng xóm láng giềng. Ðời sống cộng đồng tạo nên niềm vui qua sự thăm viếng, hỏi han, chung vui với nhau vào những dịp cưới hỏi hay lễ lạc. Yêu là sống hòa hợp với những người mình yêu sẽ làm gia tăng hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời lên bội phần.
Truyền thống của đời sống Kitô giáo cũng vậy. Yêu nhau là quan tâm tới những người thân yêu để thăm viếng, hỏi han, ca ngợi, khích lệ, và giúp đỡ lẫn nhau. Trong ngôi nhà của ông Dacaria chúng ta thấy có năm nhân vật cùng liên đới hòa hợp với nhau: Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng Ðức Trinh Nữ Maria; Ðức Maria, người mang niềm vui, bình an và phúc lành của Thiên Chúa đến cho gia đình; bà Êlisabeth tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần; vị tiên tri vĩ đại nhất trong các tiên tri, Gioan Tẩy Giả, nhảy mừng vì gặp gỡ Ðấng Cứu Thế; và ông Dacaria, một con người thinh lặng nhưng luôn mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa.
Qua sự viếng thăm và phục vụ của Ðức Maria, ngôi nhà của ông Dacaria đã trở thành ngôi nhà cầu nguyện và ban phát nguồn vui cho mọi người. Ðó là gia đình mẫu mực của tất cả các gia đình và cộng đoàn Kitô hữu. Khi chúng ta sống hòa hợp với nhau, chia sẻ cùng một đức tin và cùng nhau dâng lời ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Người ở giữa gia đình và cộng đoàn của chúng ta.
Chúng ta hãy cùng học hỏi nơi Ðức Maria phẩm chất cao quý của tình yêu thương tha nhân với sự quảng đại và tấm lòng nhân hậu. Cuộc đời quá ngắn ngủi như “hơi nước xuất hiện trong giây lát rồi lại tan biến đi” (Gv 4:14), hãy dùng những cơ hội đang có để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa qua sự thăm viếng và phục vụ anh chị em mình. Bởi tất cả mọi sự trên đời sẽ qua đi như hơi nước và mây khói, nhưng chỉ có tình yêu thương mới vĩnh viễn (1 Cr 13:13).
Xin Ðức Maria dạy cho chúng ta biết yêu thương anh chị em, hàng xóm láng giềng một cách chân thành theo như lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi đã dạy: “Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương, đem thứ tha, đem an hòa, đem chân lý, đem tin kính, đem niềm vui. Ôi thần linh thánh ái xin mở rộng lòng con”.
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Văn Thái