www.tinvuiviet.net
Tủ sách | Suy niệm Tin Mừng | Ngày lễ Công Giáo | Radio Công Giáo | Nghe Giảng-Suy niệm ... | Cầu nguyện-Tâm sự | Hội Mân Côi
02:01 CDT Thứ sáu, 29/03/2024

Menu

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 91

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 90


Hôm nayHôm nay : 2004

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 850479

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 19071674

Trang nhất » Tin Tức » Tin Tức » Tôn Giáo

Cảm động: Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine kiên quyết ở lại Kiev để thể hiện sự gần gũi của ĐTC

Thứ năm - 10/03/2022 01:46
Tin thế giới

Tin thế giới

Tờ Catholic Telegraph đưa ra một bản tóm tắt ngắn gọn về những gì xảy ra trong nghi lễ phụng vụ, “Trong giờ Kinh chiều Tha thứ, các giáo sĩ và giáo đoàn cầu xin sự tha thứ cho nhau, từng người một, về những tội họ đã phạm, dù cố ý hay không, và trao nhau một nụ hôn hòa bình.”
1. 5 Sự khác biệt giữa Mùa Chay Chính thống giáo và Công Giáo Rôma

Có nhiều điểm khác biệt giữa việc tuân thủ Mùa Chay của Chính thống giáo và Công Giáo Rôma.

Khi đức tin Kitô lan rộng khắp thế giới, các nhóm Kitô hữu địa phương cử hành năm phụng vụ theo một cách hơi khác. Đó là trường hợp của các Kitô hữu Chính thống giáo (cũng như nhiều người Công Giáo Byzantine) và Công Giáo Rôma trong việc tuân giữ Mùa Chay.


Dưới đây là năm điểm khác biệt cơ bản giữa Mùa Chay Chính thống và Công Giáo. Xin lưu ý, đây là những quy tắc “chung”, vì có nhiều Giáo Hội Chính thống giáo và Byzantine khác nhau và mỗi Giáo Hội có truyền thống địa phương riêng của họ.

Không có Thứ Tư Lễ Tro

Người Công Giáo Rôma bắt đầu Mùa Chay với việc cử hành Thứ Tư Lễ Tro và đặt tro lên trán.

Những người Kitô Hữu Đông phương thường bắt đầu “Mùa Chay Cả” với “Chúa Nhật Của Sự Tha Thứ”.

Tờ Catholic Telegraph đưa ra một bản tóm tắt ngắn gọn về những gì xảy ra trong nghi lễ phụng vụ, “Trong giờ Kinh chiều Tha thứ, các giáo sĩ và giáo đoàn cầu xin sự tha thứ cho nhau, từng người một, về những tội họ đã phạm, dù cố ý hay không, và trao nhau một nụ hôn hòa bình.”

Chúa Nhật Của Sự Tha Thứ còn được gọi là “Chúa Nhật phô mai”, vì nó là ngày cuối cùng trước Mùa chay, bao gồm việc nhịn ăn các sản phẩm từ sữa.

Không có thánh lễ hàng ngày

Trong khi người Công Giáo Rôma tiếp tục cử hành Bí tích Thánh Thể vào mọi ngày trong tuần, thì hầu hết các Kitô hữu phương Đông không cử hành Phụng vụ Thánh trong tuần.

Thay cho Phụng vụ Thánh, vào các ngày Thứ Tư và Thứ Sáu, các tín hữu Chính Thống Giáo cử hành Giờ Kinh Phụng vụ với nghi thức rước lễ.

Người Công Giáo Rôma có một hình thức rước lễ tương tự như thế vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

Đại Chay

Các Kitô hữu phương Đông có những quy định nghiêm ngặt hơn nhiều về việc ăn chay trong Mùa Chay, kiêng thịt, trứng và sữa, và không uống bất kỳ loại rượu nào.

Kỷ luật này nhiều hơn những người Công Giáo Rôma, vì chúng ta chỉ được yêu cầu chay tịnh vào Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, và kiêng thịt vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay.

Alleluia được sử dụng thường xuyên hơn trong Mùa Chay

Người Công Giáo Rôma quen với việc “không hát” Alleluia trong Mùa Chay, và chỉ hát lại Alleluia vào Đêm Vọng Phục sinh.

Đối với nhiều Kitô hữu Chính thống và Byzantine, Alleluia được sử dụng thường xuyên hơn trong Mùa Chay, vì nó được xem như một từ ca ngợi hiếm khi bị lược bỏ.

Màu tím chỉ sử dụng vào các ngày trong tuần

Màu tím thường được sử dụng nhiều nhất trong các nhà thờ Chính thống giáo vào các ngày trong tuần của Mùa Chay, trong khi màu sáng, thường là vàng, được sử dụng vào các ngày Chúa Nhật trong Mùa Chay.

Màu sắc tươi sáng và vui tươi luôn đánh dấu các lễ cử hành Phụng vụ Thánh, đó là lý do tại sao các ngày Chúa Nhật vẫn giữ được màu sắc đó ngay cả trong Mùa Chay.

Đối với người Công Giáo Rôma, màu tím được sử dụng mỗi ngày trong Mùa Chay, trừ những ngày lễ lớn và Chúa Nhật thứ 4 của Mùa Chay, khi mầu hồng được sử dụng.
Source:Aleteia

2. Russkiy Mir– ‘Thế giới Nga’ đụng độ chính trị Ukraine và ngoại giao Vatican

Tạp chí The Pillar vừa có một cộng tác viên người Ukraine, ông Anatolii Babynskii, hiện là chuyên viên nghiên cứu tại Viện Giáo Sử của Đại Học Công Giáo Ukraine. Bài đầu tiên của ông trên The Pillar nói đến khái niệm Russkiy-mir - thế giới Nga của Vladimir Putin được thảo luận nhiều nhưng ít được hiểu rõ - và nền ngoại giao của Vatican đã đóng vai trò như thế nào đối với thế giới quan tôn giáo và chính trị của Mạc Tư Khoa.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Trong một bài phát biểu năm 2014 nhằm biện minh cho việc sáp nhập Crimea, Vladimir Putin không dừng lại ở các luận điểm chính trị - thực vậy, ông đã đi xa hơn nhiều. Ông đưa ra một khuôn khổ cho một thế giới quan sẽ định nghĩa các năm tháng của ông trong chức vụ tổng thống Nga và điều này sẽ được thường xuyên lặp lại bởi cả các đồng minh chính trị của Putin lẫn các nhà lãnh đạo của Giáo Hội Chính thống Nga.

Hiểu được thế giới quan đó là chìa khóa để hiểu được cuộc xâm lược của Nga vào cuối tháng Hai vừa qua ở Ukraine. Nhưng điều quan trọng nữa là hiểu được tác động của nó đối với các cuộc đối thoại đại kết giữa Vatican với Giáo Hội Chính thống giáo Nga, một điều xem ra chắc chắn sẽ thay đổi sau khi Nga xâm lược có vũ trang vào quốc gia láng giềng của mình.

Năm 2014, khi nhắc đến Thánh Vladimir, Hoàng tử của Kiev và là tên thánh của Putin, Tổng thống Nga đã lập luận rằng việc trở lại năm 988 của Hoàng tử này sang Chính thống giáo phương Đông “đã xác định trước cơ sở toàn diện của nền văn hóa, văn minh và các giá trị nhân bản vốn thống nhất các dân tộc Nga, Ukraine, và Belarus”.

Cùng lúc đó, trong “bài phát biểu về Crimea” nổi tiếng của Putin, quan niệm Russkiy Mir – ý thức hệ “thế giới Nga”, rất phổ biến trong nền chính trị và Giáo hội Nga - đã được phản ảnh một cách rộng dài và khéo léo. Nó cũng lên khuôn khu vực địa lý được Putin chú ý đặc biệt.

Cho đến năm 2000, Russkiy Mir chủ yếu là vấn đề của giới trí thức. Nhưng vào đầu thế kỷ 21, nó đã trở thành một chiến lược bán chính thức của cả các chính trị gia Nga lẫn các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa liên quan đến các quốc gia láng giềng của Nga.

Theo quan điểm của họ, “thế giới Nga” bao gồm gần như toàn bộ Đông Âu - tất cả các lãnh thổ mà ở các thời điểm khác nhau đều là bộ phận của Đế quốc Nga và Liên bang Xô viết, bao gồm cả cộng đồng cư dân của các quốc gia này ở các khu vực khác trên thế giới.

Khi mô hình “thế giới Nga” bắt đầu nắm bắt được trí tưởng tượng chính trị của Putin, giới lãnh đạo Nga bắt đầu thúc đẩy các quốc gia láng giềng của mình tiến tới sự hội nhập kinh tế, quân sự, chính trị và văn hóa gần nhất có thể.

Đến lượt mình, Giáo Hội Chính thống Nga đóng một vai trò quyền lực mềm, vì mạng lưới các giáo xứ của họ, vốn tồn tại sau sự sụp đổ của Liên Xô, vẫn là một trong những công cụ gây ảnh hưởng hữu hiệu nhất ở các nước khác.

Elena Volkova, một nhà trí thức và cựu giáo sư tại Đại học quốc gia ở Mạc Tư Khoa, gần đây đã nói ở Ukraine rằng ý thức hệ “thế giới Nga” có thể được rút gọn thành một kết luận ngắn gọn:

“Nga phải giành lại lãnh thổ của đế quốc. Quyền lực độc quyền đối với các linh hồn phải thuộc về Giáo Hội Chính Thống Nga. Bất cứ cuộc nói chuyện nào về sự độc lập của nhà nước hoặc giáo hội đều bị coi là công việc của kẻ thù, kẻ ngay lập tức bị coi là người theo chủ nghĩa Satan và người theo chủ nghĩa ly giáo, kẻ thù của Giáo hội”.

Ở Belarus, ít có vấn đề trong việc thực hiện chiến lược này, nhưng ở Ukraine, chương trình nghị sự chính trị “thế giới Nga” gặp phải những trở ngại nghiêm trọng đối với việc du nhập chiến lược này.

Đối với nhiều nhà phân tích, dường như giới lãnh đạo chính trị Nga chưa bao giờ thực sự nghĩ tới sự khác biệt về lịch sử văn hóa và chính trị của Nga và Ukraine. Và đối với Giáo Hội Chính thống Nga, tình hình thậm chí còn khó khăn hơn, một phần do sự đa dạng tôn giáo của Ukraine.

Taras Antoshevskyi, Giám đốc Dịch vụ Thông tin Tôn giáo Ukraine, nói với The Pillar, “Bảng màu tôn giáo Ukraine khá đa dạng”.

Ở Ukraine, “có những cơ cấu phát triển tốt của Giáo Hội Công Giáo Đông phương và Công Giáo Rôma, mặc dù họ là thiểu số - chỉ 10% người Ukraine là Công Giáo – nhưng họ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các diễn trình tôn giáo xã hội trong nước”.

Antoshevski nói thêm, “Ngược lại, Chính thống giáo Ukraine bị chia rẽ kể từ năm 1989: một bộ phận tiếp tục hợp nhất với Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, trong khi một nhóm khác đòi độc lập và vào năm 2019 đã nhận được tư cách tự trị từ Tòa thượng phụ Constantinople”.

“Và sau đó có nhiều cộng đồng Tin lành rất tích cực về mặt xã hội.”

Ý thức hệ “thế giới Nga” phần nào phổ biến với Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa và thế hệ cũ, vốn muốn khôi phục Liên Xô, nhưng nó đã bị các thành viên của các Giáo Hội khác và xã hội Ukraine rộng lớn hơn cảm nhận một cách tiêu cực.

Sự hiện diện của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương có lẽ đã trở thành vấn đề nghiêm trọng nhất đối với Giáo Hội Chính Thống Nga.

Trong một chuyến thăm Ukraine năm 2009, Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, trong một bài giảng, đã mô tả người Công Giáo Ukraine theo nghi lễ Đông phương là những người cố gắng “thay đổi cuộc sống của mọi người bằng vũ lực, thay đổi văn hóa, đức tin, bản sắc dân tộc của họ”.

Quan điểm của Kirill rất rõ ràng: bản sắc và văn hóa Ukraine thuộc về “thế giới Nga” và những người Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã chen vào.

Không muốn trực tiếp giải quyết những bất đồng lịch sử chung với người Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông Phương, Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa đã tìm cách giải quyết vấn đề của mình bằng bàn tay của Vatican.

Kể từ những năm 1990, hầu hết mọi nỗ lực của Giáo Hội Chính Thống Nga trong cuộc đối thoại Công Giáo-Chính thống đều tập trung vào giải pháp cho “vấn đề qui hiệp” - tức là các vấn đề giáo hội học và văn hóa đặt ra cho Giáo Hội Chính Thống Nga do sự hiện hữu của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông Phương.

Lợi dụng mong ước của Vatican muốn tiếp tục đối thoại với Giáo hội Nga, ban lãnh đạo của Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa đã thúc đẩy Vatican quay trở lại tình trạng trước năm 1989, khi Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông Phương chính thức bị cấm ở Liên Xô và sau năm 1946 chỉ hiện hữu một cách hầm trú trong nước và ở hải ngoại.

Sau khi sáp nhập Crimea, và trước chuyến thăm của Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Pietro Parolin tại Mạc Tư Khoa vào năm 2017, Tổng Giám Mục Hilarion Alfeev, người trên thực tế là Bộ trưởng Ngoại giao của Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, một lần nữa nhắc lại rằng “Vấn đề nhức nhối nhất trong tương quan giữa các Giáo hội của chúng ta là sắc lệnh Qui Hiệp, vốn đã và đang gây tổn hại nghiêm trọng cho các mối tương quan Chính thống-Công Giáo nói chung trong nhiều thế kỷ”.

Tưởng cũng nên biết thêm, người Công Giáo nghi lễ Đông Phương bắt đầu xuất hiện vào năm 1596 khi một số người Ukraine theo Chính thống giáo, khi đó nằm dưới sự cai trị của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva do Công Giáo thống trị, đệ trình lên Tòa Thánh một thỏa thuận xin hiệp thông trọn vẹn với Rôma miễn là Tòa Thánh cho phép họ giữ các thực hành đặc biệt như phụng vụ Byzantine của họ và cho phép các linh mục lập gia đình. Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Ngũ đã ra Sắc lệnh Qui Hiệp thành lập Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương.

Quan điểm của Hilarion không hoàn toàn xa lạ với một số người ủng hộ chính sách Ostpolitik ở Vatican, họ sẵn sàng đối thoại với Mạc Tư Khoa ngay cả khi những người Công Giáo Đông phương Ukraine phải trả giá.

Và thực thế, sự xuất hiện của các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương ở Ukraine và Rumani vào những năm 1980 từ tình huống hầm trú đã ảnh hưởng đến tiến trình đại kết. Nhưng tình hình đó cho thấy mức độ cuộc đối thoại Công Giáo-Chính thống phụ thuộc vào tình hình ở Âu Châu thời hậu chiến.

Cha Andrii Mykhaleiko, một nhà Giáo sử học tại Đại học Công Giáo Eichstätt-Ingolstadt ở Đức, nói với The Pillar rằng “tình hình sau năm 1989 xác nhận rằng cuộc đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và Chính thống phụ thuộc vào hiện trạng địa chính trị và đại kết của những năm 1970 và những năm 1980, khi cả Chính thống giáo và Công Giáo đều không thể thấy trước những thay đổi của năm 1989”.

Kể từ năm 1989, tình hình chính trị ở Đông Âu đã thay đổi đáng kể, nhưng cuộc đối thoại đại kết, ít nhất là ở khu vực này của thế giới, dường như vẫn khiến nhiều người Ukraine trở thành con tin cho những nỗ lực của Nga nhằm xây dựng lại đế chế dưới chiêu bài “Thế giới Nga”.

Nhưng hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine đã làm dấy lên câu hỏi về việc duyệt lại chính sách Ostpolitik của Vatican, vì cả hai vấn đề của chính sách đối ngoại và đối thoại đại kết.

Và đối với nhiều người Ukraine theo dõi cách tiếp cận của Vatican trong cuộc đối thoại với Mạc Tư Khoa, vài tuần qua đã làm rõ điều mà người Công Giáo ở Đông Âu đã tranh cãi trong nhiều thập niên: rằng mục tiêu duy trì quan hệ giữa Tòa thánh và các chế độ độc tài bằng mọi giá sẽ chỉ gây hại cho Giáo Hội Công Giáo và sứ mệnh truyền giáo trên thế giới.

Nếu không có gì khác, cuộc chiến dường như chắc chắn sẽ thay đổi đường nét của các cuộc đối thoại đại kết của Vatican và thay đổi một cách nhanh chóng.

Tiến sĩ Oleh Turii, phó viện trưởng Đại học Công Giáo Ukraine, nói với The Pillar tuần này rằng:

“Chúng tôi thấy hiện nay người ta đang đoàn kết như thế nào xung quanh các nguyên tắc nền tảng và các giá trị tốt đẹp cho tương lai của nhân loại. Điều này cho chúng ta hy vọng rằng nó cũng sẽ sớm chữa lành cuộc đối thoại đại kết”.

“Các mối liên hệ chân thành giữa các Kitô hữu không thể được xây dựng trên các tối hậu thư, dối trá, hay ý thức hệ. Chúng chỉ có thể phát triển trên nền tảng mong muốn chân thành của cả hai bên là khôi phục sự thống nhất của Giáo hội”.
Source:Pillar Catholic

3. Khi quân đội Nga tiến đánh thủ đô Ukraine, Sứ thần Tòa Thánh cho biết ngài sẽ ở lại Kiev

Hiện đang ở Kiev, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine cho biết bất kể một cuộc tấn công của Nga vào thành phố này sắp xảy ra, ngài quyết tâm ở lại và ở bên người dân như một dấu chỉ cho thấy sự gần gũi của Đức Giáo Hoàng.

Phát biểu với SIR, hãng thông tấn chính thức của các giám mục Ý, Đức Tổng Giám Mục Visvaldas Kulbokas, người được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa thánh tại Ukraine vào tháng 6 năm 2021, cho biết ngài đã đưa ra quyết định khó khăn là ở lại Kiev “bởi vì chúng tôi không chỉ là một đại sứ quán”.

“Ở đây tôi đại diện cho Đức Giáo Hoàng trước người dân và các Giáo Hội ở Ukraine. Tôi không chỉ có nhiệm vụ, mà còn có khả năng gần gũi với mọi người. Vì vậy, vị trí của tôi là ở đây.”

Nếu tình hình xấu đi và trở nên “không thể ở lại được về mặt thể lý”, Đức Tổng Giám Mục Kulbokas cho biết lúc đó ngài sẽ nghĩ đến câu hỏi liệu có nên di tản hay không, “nhưng hiện tại chúng tôi cố gắng ở lại đây, chúng tôi sẽ không di chuyển.”

Hiện tại cuộc chiến ở Ukraine đang chứng kiến nhiều thương vong hơn khi quân đội Nga ngày càng nhắm mục tiêu vào các khu vực đô thị nhằm chống lại lực lượng phòng thủ của Ukraine.

Một đoàn xe của Nga dài khoảng 40 dặm được cho là đang tiến gần đến Kiev, nơi các công dân đã trú ẩn trong các tàu điện ngầm và tầng hầm trong nhiều ngày khi tiếng còi cảnh báo về các cuộc oanh tạc.

Quảng trường Độc lập mang tính biểu tượng của thành phố trong những ngày qua bị rào chắn bằng bao cát và thiết bị chống tăng của Tiệp để chặn đường đi của xe tăng. Các cửa hàng tạp hóa thưa thớt, và các đường phố hầu như không có người ngoài một số ít người xếp hàng chờ đợi ở hiệu thuốc hoặc siêu thị.

Quân đội Ukraine đang tiến hành kiểm tra các gián điệp Nga có thể do thám các địa điểm chiến lược, chặn xe hơi và người đi bộ để thực hiện kiểm tra túi xách và phương tiện.

Cho đến nay, ước tính có khoảng 2,800 binh sĩ Ukraine đã thiệt mạng kể từ cuộc xâm lược của Nga vào hôm 24 tháng Hai và Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc cho đến nay đã ghi nhận khoảng 752 thương vong dân thường ở Ukraine, với 227 người thiệt mạng và 525 người bị thương.

Theo Bộ Quốc phòng Nga, ít nhất 498 binh sĩ Nga đã thiệt mạng ở Ukraine và hơn 1,500 người bị thương, mặc dù chính quyền Ukraine đang báo cáo tỷ lệ thương vong của Nga cao hơn nhiều.

Những con số này dự kiến sẽ tăng lên khi các cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn và khi các lực lượng Ukraine và Nga tham chiến giành Kiev trong những ngày tới.

Nói về tình hình hiện tại ở Kiev, Đức Tổng Giám Mục Kulbokas cho biết Tòa Sứ Thần Tòa Thánh nằm ở một trong những quận trung tâm, và ngài đang ở đó cùng với hai cộng tác viên và một nhóm nữ tu làm việc ở đó.

Đức Cha Kulbokas nói rằng trong những tuần trước khi Nga xâm lược, các vị cũng như những người khác, dự trữ thức ăn và nước uống để phòng trường hợp tình hình leo thang, nhưng không ai tin rằng chiến tranh sẽ thực sự nổ ra.

“Do đó, chúng tôi sẽ có thức ăn và nước uống trong một thời gian, nhưng chắc chắn không lâu lắm,” ngài nói và lưu ý rằng một số người Ukraine đã bị ảnh hưởng bởi những gì có thể sẽ trở thành một cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng.

“Những ngày trôi qua, nó sẽ mở rộng ra toàn thành phố Kiev,” và ở các thành phố khác như Kharkiv, nơi đã xảy ra giao tranh ác liệt, và Odessa, Mariupol và Kherson, “tình hình cũng tương tự”.

Tình hình nhân đạo “chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn,” Đức Sứ thần Tòa Thánh nói và cho biết mối quan tâm lớn khác của ngài ngay từ đầu là số phận của những người già và những người bệnh tật.

“Làm thế nào để bạn tiếp tục điều trị trong những tình huống này? Đặc biệt là đối với những người không thể, cũng như không có sức lực để di tản và phải ở lại”.

Đức Cha Kulbokas cho biết cũng có lo lắng cho những phụ nữ mang thai sắp sinh và lưu ý rằng nhiều trẻ em đang được sinh ra trong các hầm trú ẩn dưới lòng đất, không được chăm sóc chuyên biệt hoặc hỗ trợ y tế.

“Thảm kịch hiện nay rất kinh hoàng”.

Đề cập đến nhiều vụ nổ đã được nghe thấy ở ngoại ô Kiev kể từ khi giao tranh bắt đầu, Đức Cha Kulbokas cho biết Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đã xác định một số khu vực được cho là “tương đối được bảo vệ tốt hơn” trong trường hợp bị tấn công bằng hỏa tiễn.

Hiện giờ, mọi người đang ngủ trên những tấm đệm mà họ đặt trong nhiều nơi trú ẩn tạm thời khác nhau, bao gồm cả tầng hầm của một số tòa nhà.

Các thánh lễ cũng được cử hành ở những nơi được coi là an toàn, tuy nhiên, Đức Cha Kulbokas cho biết ngài luôn giữ một chiếc ba lô gần đó để đựng những thứ cần thiết: nước, tài liệu và điện thoại, để “sẵn sàng cho mọi tình huống”.

Nói về quyết định ở lại của chính mình, Đức Cha Kulbokas nói rằng việc truyền tải sự gần gũi của Đức Giáo Hoàng với người dân Ukraine có “một ý nghĩa rất mạnh mẽ đối với tôi, bởi vì ở đây, theo một cách nào đó, chúng tôi có thể cảm nhận được thảm kịch của những người phải hứng chịu súng đạn, lạnh giá, nguy hiểm, thương tích, và thậm chí cả cái chết. “

“Nhưng chúng tôi cũng có thể cảm nhận rất rõ tình đoàn kết giữa những người Ukraine, của tất cả các tín ngưỡng và tôn giáo,” ngài nói và cho biết ngài nhận được một cuộc gọi mỗi ngày từ mufti của Kiev, người hỏi xem họ có đủ thức ăn và nước uống hay không, hoặc liệu họ có cần phải che chở cho ai đó.

Cả người Công Giáo và Chính thống giáo, cũng như người Do Thái, đều làm như vậy đối với nhau trong Giáo Hội của họ. Ngài nói thêm, “Có rất nhiều sự đoàn kết và chứng kiến sự đoàn kết này là một trải nghiệm đẹp và rất mạnh mẽ.”

Đức Cha Kulbokas cho biết họ cũng cảm thấy tình đoàn kết của những người bên ngoài Ukraine, những người đang cầu nguyện cho hòa bình, nói rằng, “Cứ như thể chúng ta, trong những ngày này, là thủ đô tinh thần của thế giới, nơi một mặt, đang có giao tranh nhưng cũng có một mặt khác là phản ứng đẹp đẽ của nhân loại”.

Đề cập đến vô số lời kêu gọi trên mạng xã hội của Đức Giáo Hoàng và cách tiếp cận ngoại giao của ngài đối với cuộc chiến, Đức Cha Kulbokas cho biết ngài đã nhận được vô số cuộc gọi từ mọi người bày tỏ lòng biết ơn đối với những lời cầu nguyện của Đức Giáo Hoàng và nhiều lời kêu gọi hòa bình của ngài.

Đức Sứ thần Tòa Thánh nói Đức Giáo Hoàng Phanxicô, “chắc chắn là gần gũi với người Ukraine đau khổ, nhưng ngài gần với tất cả mọi người. Đức Giáo Hoàng nói rằng chiến tranh phải ngừng lại, không có lý do nào có thể biện minh cho chiến tranh. Chiến tranh là công việc của ma quỷ và do đó phải cố gắng hết sức có thể để ngăn chặn nó”.

Nhiệm vụ chính của Giáo Hội là “hòa giải tất cả mọi người,” và nuôi dưỡng tinh thần huynh đệ ở mọi phía, Đức Cha Kulbokas nói, bày tỏ mong muốn của mình rằng “mọi người sẽ tham gia vào sứ mệnh lên án chiến tranh, hiệp nhất tinh thần và hòa bình với mọi người. “

Nói về ngày cầu nguyện và ăn chay vì hòa bình ở Ukraine do Đức Giáo Hoàng kêu gọi và diễn ra vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Cha Kulbokas cho biết đây là một cử chỉ rất quan trọng đối với người Ukraine.

“Đôi khi chúng ta nghi ngờ về lời cầu nguyện, như thể đó chỉ là một lời cầu xin cá nhân. Cầu nguyện không chỉ là như thế: nó còn là tình liên đới với những người không phải là tín hữu, là sự gần gũi, là tình anh em. Nó góp phần vào hòa bình vì nó phá hủy chính nền tảng của chiến tranh.”

Ngài nói thêm: “Hãy loại bỏ sự kiêu ngạo, sự thiếu trách nhiệm, và hoán cải, hoán cải mang lại cho chúng ta tinh thần khiêm nhường. Lời cầu nguyện kết hợp chúng ta với Thiên Chúa và với tất cả chúng ta và trong lời cầu nguyện, chúng ta một lần nữa trở nên trong Thiên Chúa, các con trai và con gái của Ngài”.

“Khi Chúa thấy chúng ta như thế này. Ngài không thể thờ ơ và không ban cho chúng ta sự bình an như một ân sủng.”
Source:Crux
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Giới thiệu

Liên hệ

Tinvuiviet.net kính chào Quý vị và các bạn. Chúng tôi luôn mong nhận được bài vở cộng tác của mọi người. Xin cám ơn.   Liên hệ: Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email: bbttinvui@gmail.com. Chân thành cảm ơn Quý vị và các bạn đã ghé thăm site. Kính chúc Quý vị và các...

Thánh Lễ - Kinh Nguyện

 



Thánh Lễ Trực Tuyến

Thăm dò ý kiến

Chúng ta nên làm gì để nhiều người biết Thiên Chúa hơn ?

Cầu nguyện.

Đi lễ.

Sống bác ái.

Loan báo Tin Mừng.

Chu toàn nhiệm vụ hằng ngày.