Video: Giáo Hội Năm Châu 19/11/2018: Tình cảnh Giáo Hội tại Hoa Lục

Giáo Hội Năm Châu

Giáo Hội Năm Châu

Ngay từ đầu chúng ta được nói cho biết rằng Chúa lắng nghe người nghèo đang kêu lên Ngài; Ngài đối xử tốt với những ai tìm nơi trú ẩn trong Ngài, khi trái tim của họ bị vỡ nát bởi buồn phiền, cô đơn và loại trừ.

1. Hồi Giáo cực đoan Pakistan photoshop một bức ảnh của Đức Giáo Hoàng nhằm gây căm phẫn trong dân

Chính phủ Pakistan đang cố gắng chống lại những tin đồn cho rằng Asia Bibi đã được đưa ra nước ngoài và đã gặp Đức Thánh Cha Phanxicô.


Asia Bibi, một phụ nữ Công Giáo, đã được tha bổng sau 8 năm bị giam giữ chờ ngày hành quyết về tội phỉ báng Mohammed.

Hôm thứ Hai 12 tháng 11, ông Fawad Chaudhry, Bộ trưởng Thông tin Pakistan, đã chỉ trích “những kẻ vô trách nhiệm” tung ra các bức ảnh giả mạo.

Những hình ảnh này đã lan truyền rất nhanh trên các mạng truyền thông xã hội ở Pakistan và ngay lập tức kích động một cuộc biểu tình rất lớn trong đó những người biểu tình yêu cầu treo cổ ngay lập tức một luật sư có mặt trong những bức hình đó. 

Ông Fawad Chaudhry cho biết những bức ảnh cho thấy Asia Bibi gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thực sự là hình ảnh của con gái cô được chụp cách đây hai năm. Ông khẳng định cô Bibi vẫn còn ở trong nước tại một địa điểm bí mật được chính phủ bảo vệ sau khi được đoàn tụ với gia đình trong một bối cảnh “đầy nước mắt”.

Luật sư có mặt trong những bức hình đó là ai? Là bất cứ ai. Các giáo sĩ cực đoan ghét ai thì “photoshop” người ấy vào để làm hại người ấy. 

Trong một diễn biến khác, Thủ tướng Canada là ông Justin Trudeau nói với thông tấn xã AFP là chính phủ Canada đang dàn xếp với Pakistan để đưa cô Asia Bi và gia đình đi tị nạn tại Canada.

2. Công an Trung Quốc bắt 4 linh mục hầm trú

Bốn linh mục thuộc Giáo Hội Công Giáo hầm trú ở tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc đã bị công an Trung Quốc giam giữ đưa đi học tập cải tạo.

Bản tin của Asia News hôm 5 tháng 11 cho biết các ngài bị bắt để cán bộ “truyền bá chính sách tôn giáo của chính phủ Trung Quốc” vì cho đến nay các ngài vẫn tiếp tục từ chối ghi danh vào Hiệp hội Công Giáo Yêu nước.

Trong số 4 linh mục bị bắt có hai vị thuộc giáo phận Tuyên Hoá và hai vị còn lại thuộc giáo phận Tây Loan Tử.

Trong khi đó, Asia News ghi nhận hàng loạt các nhà thờ Công Giáo tại các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Quý Châu, Thiểm Tây và Sơn Đông đã bị triệt hạ sau khi thỏa thuận Vatican - Trung Quốc được ký kết hôm 22 tháng 9.

Thỏa thuận trên đã được ký kết trong bối cảnh người Công Giáo Trung Quốc và các nhóm tôn giáo thiểu số khác, đáng chú ý là những người Hồi giáo Tân Cương, đang phải chịu đựng một sự đàn áp gay gắt nhất trong nhiều thập kỷ qua. Nghiêm trọng nhất là việc Trung Quốc giam giữ một triệu người Tân Cương trong các trại cải tạo tẩy não, một hành động có thể cấu thành các tội ác chống lại nhân loại.

Ký kết thỏa hiệp với một thế lực tàn bạo như thế, Tòa Thánh đã bị các nhóm nhân quyền trên thế giới phê phán mạnh mẽ. Một số nhà lãnh đạo Giáo Hội cũng lên tiếng chỉ trích, bao gồm cả Đức Hồng Y Trần Nhật Quân, giám mục hiệu tòa của Hương Cảng.

3. Công an Trung Quốc bắt giữ Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn

Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 9 tháng 11, công an Trung Quốc đã bắt giữ Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn, Giám Mục Ôn Châu, thuộc tỉnh Chiết Giang, và nói với giáo dân họ mời ngài đi “làm việc” từ “10 đến 15 ngày”.

Lần nào công an Trung Quốc cũng nói như thế nhưng lần cuối cùng ngài bị bắt là vào là tháng 5 năm 2017, và chỉ được thả ra sau 7 tháng đưa đi biệt tích. “Làm việc” có nghĩa là thẩm vấn và ép buộc học tập ý thức hệ cộng sản.

Các tín hữu của giáo phận đã mời gọi tất cả các cộng đồng và Giáo Hội trên thế giới cầu nguyện cho vị Giám Mục của họ.

Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn, 55 tuổi, thuộc về cộng đoàn thầm lặng, không được bọn cầm quyền Trung Quốc công nhận, nhưng ngài được Tòa Thánh công nhận là Giám Mục Ôn Châu. Trong hai năm qua, ngài đã bị công an cộng sản bắt ít nhất 5 lần. Lần cuối cùng là vào hồi tháng 5 năm 2017.

Là một giám mục “thầm lặng”, trong thời gian bị bắt, ngài bị ép buộc phải gia nhập vào Hiệp hội Công Giáo Yêu nước. Nhưng Đức Cha Phêrô từ chối vì ngài khẳng định rằng trong thư gửi cho người Công Giáo Trung Quốc vào năm 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã thẳng thừng phê phán Hiệp hội là “hoàn toàn không phù hợp với tín lý Công Giáo”.

Chính vì thế, Đức Cha Phêrô cũng được sự kính trọng của cộng đoàn công khai ở Ôn Châu. Giáo phận Ôn Châu có khoảng 130 nghìn tín hữu, với hơn 80 nghìn là thành viên của cộng đoàn thầm lặng. Hiện nay, tòan giáo phận có linh mục 70, chia đều giữa hai cộng đoàn. Trong nhiều thập niên, Giáo hội tại Ôn Châu đã bị chia rẽ. Nhưng trong vài năm trở lại hai cộng đoàn vẫn thường làm việc cùng nhau.

Tại Ôn Châu, ngay cả các linh mục chính thức cũng bị hạn chế và kiểm soát. Trong tháng các linh hồn các linh mục chính thức bị cấm không được viếng thăm lăng mộ của một số linh mục và giám mục thầm lặng, là những vị được mọi tín hữu kính ngưỡng; đặc biệt là phần mộ của Đức Cha Vinh Sơn Chu Duy Phương. Đức Cha Vinh Sơn qua đời năm 2016. Mộ phần của ngài thường xuyên bị phá phách.

Vào các ngày Chúa Nhật, công an cộng sản rảo quanh các nhà thờ cấm các trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi vào các thánh đường và cấm triệt để các lớp giáo lý ngày Chúa Nhật.

Sau khi thỏa thuận giữa Trung Quốc và Vatican về việc bổ nhiệm các giám mục được ký kết hôm 22 tháng 9, cộng sản đã tăng cường kiểm soát và đàn áp các cộng đoàn thầm lặng, và nhắc lại trong các cuộc họp với các giáo sĩ chính thức rằng Giáo hội Trung Quốc vẫn “độc lập”, bất chấp thỏa thuận này.

4. Đức Hồng Y Trần Nhật Quân trao tận tay Đức Thánh Cha lá thư về tình trạng của Giáo Hội tại Hoa Lục sau thỏa thuận Vatican- Trung Quốc

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân đã bay sang Rôma và trao một lá thư dài 7 trang cho Đức Thánh Cha Phanxicô để lưu ý ngài về cuộc khủng hoảng mà Giáo Hội thầm lặng ở Trung Quốc phải đối diện sau thỏa thuận Vatican - Trung Quốc được ký hôm 22/9.

Hôm 8 tháng 11, Đức Hồng Y nguyên Tổng Giám Mục Hương Cảng nói với ucanews.com rằng các giáo sĩ thuộc Giáo Hội thầm lặng đã khẩn thiết kêu cầu ngài lên tiếng sau khi Vatican ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục.

Đức Hồng Y cho biết:

“Các linh mục nói rằng các quan chức đã buộc các ngài phải ra công khai, phải tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc và xin giấy chứng nhận linh mục với lý do là giáo hoàng đã ký thỏa thuận tạm thời Trung Quốc -Vatican”.

Theo Đức Hồng Y, thỏa thuận này đã không được công bố, nên anh chị em trong Giáo Hội thầm lặng không biết họ nên làm gì.

“Một số linh mục đã từ bỏ việc mục vụ, và một số linh mục khác đã biến mất vì các ngài không biết phải làm gì và rất bất bình. Thỏa thuận này không được tiết lộ, và họ không biết liệu các quan chức có nói đúng hay không”.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân nói rằng Giáo hội Trung Quốc đang phải đối diện với một cuộc đàn áp mới và Tòa Thánh đã giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc đàn áp cộng đồng thầm lặng.

Đức Hồng Y đã bay sang Rôma và lưu lại đó từ ngày 29 tháng 10 đến ngày 1 tháng 11 để trao bức thư của ngài cho Đức Giáo Hoàng. Ngài tâm sự: “Tôi muốn nói chuyện với Đức Giáo Hoàng một lần nữa và hy vọng ngài sẽ xem xét lại, nhưng đây có thể là lần cuối cùng”.

Trong bức thư của mình, Đức Hồng Y cho biết các cán bộ địa phương đã tịch thu tiền dâng cúng của các nhà thờ thầm lặng, gây phiền hà cho thân nhân các giáo sĩ, bắt họ đi tù và thậm chí trong quá khứ nhiều người đã phải mất mạng sống vì đức tin.

“Nhưng Tòa Thánh không ủng hộ họ và coi họ là những kẻ gây ra vấn đề, ám chỉ họ gây rắc rối và không ủng hộ sự hiệp nhất. Đây là điều khiến họ đau đớn nhất”, Đức Hồng Y nhận xét.

Bức thư cũng nói rằng Giáo hội Trung Quốc không có quyền tự do bầu các giám mục.

“Đức Giáo Hoàng đã nói rằng các tín hữu của Giáo hội Trung Quốc phải là những vị tiên tri và đôi khi chỉ trích chính phủ. Tôi cảm thấy rất ngạc nhiên khi ngài chẳng hiểu gì về tình hình của Giáo hội Trung Quốc”.

Vào ngày 26 tháng Chín, bốn ngày sau khi thỏa thuận tạm thời được ký, Đức Giáo Hoàng đã viết một thông điệp cho các tín hữu Công Giáo tại Trung Quốc cũng như trên toàn thế giới giải thích lý do ký thỏa thuận: đó là để thúc đẩy việc công bố Tin Mừng, và thiết lập sự thống nhất trong cộng đồng Công Giáo ở Trung Quốc.

Ngoài ra, sau chuyến viếng thăm mục vụ của mình tới Lithuania, Latvia và Estonia từ ngày 2-25 tháng 9, Đức Giáo Hoàng đã nói với giới truyền thông trên chuyến bay trở về Rôma của ngài rằng mọi người nên “tôn vinh những người chịu khổ vì đức tin”, đặc biệt là ở ba nước đó dưới tay Đức quốc xã và Cộng sản.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân nói với ucanews.com rằng những lời của Đức Giáo Hoàng khiến ngài cảm thấy rằng “Đức Thánh Cha dường như không biết rằng lịch sử của các quốc gia này cũng là lịch sử của Giáo hội Trung Quốc và tình hình hiện tại vẫn đang diễn ra như vậy.” Ngài nghi ngờ rằng Đức Giáo Hoàng đã bị lừa dối bởi những người xung quanh ngài là những người không nói cho gài biết tình hình thực tế mà Giáo Hội tại Trung Quốc phải đối mặt.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân đặc biệt chỉ trích Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, là người đã thương lượng với chính phủ Trung Quốc.

“Ngài rất có kinh nghiệm. Ngài cũng biết rõ khuôn mặt tàn bạo của Trung Quốc và biết rõ họ là những kẻ ngang ngược vô lý. Ngài không tin vào phía Trung Quốc nhưng ngài sử dụng họ để đạt được mục đích thiết lập quan hệ ngoại giao”.

Đức Hồng Y Quân nhắc lại rằng bức thư Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 viết cho Giáo hội Trung Quốc đã bị thao túng khỏi bối cảnh, đặc biệt là về sự tồn tại của Giáo Hội thầm lặng.

Ngài nói: “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 không nói về sự bất thường của chính Giáo Hội thầm lặng, nhưng nói rằng tình hình ở Trung Quốc là không bình thường. Sự can thiệp của chính phủ có nghĩa là Giáo Hội không thể thuần khiết và điều đó dẫn đến những bất thường, vì vậy các giám mục, linh mục và tín hữu phải chọn con đường thầm lặng.”

Khi chính phủ Trung Quốc vẫn can thiệp vào công việc của Giáo Hội, và các tín hữu muốn giữ đức tin của họ trong sạch, thì không thể yêu cầu các Giáo Hội chính thức và Giáo Hội thầm lặng hợp nhất.

Đức Hồng Y kết luận rằng:

“Giới hạn cuối cùng của chúng tôi là Đức Giáo Hoàng. Chúng tôi không thể tấn công ngài. Nếu Đức Giáo Hoàng sai lầm lần này, tôi hy vọng ngài sẽ thừa nhận sai lầm của mình; nếu ngài không thừa nhận, tôi hy vọng rằng vị Giáo Hoàng tương lai sẽ chỉ ra sai lầm. Nhưng trên hết, nó vẫn là quyết định cuối cùng của Đức Giáo Hoàng. Nếu không như thế, thì không đúng nguyên tắc, vì thế anh chị em ở đại lục đừng nên nổi loạn”.

Trước đó, vào tháng Giêng năm nay, Đức Hồng Y cũng đã trao cho Đức Thánh Cha một lá thư, bày tỏ những lo ngại về việc Tòa Thánh yêu cầu hai giám mục được Tòa Thánh công nhận phải bước sang một bên để nhường chỗ cho các giám mục bất hợp pháp.

5. Tuyên bố của các chính trị gia và trí thức Công Giáo Anh về thỏa thuận Vatican - Trung Quốc

Ngày 22 tháng 9 vừa qua, Tòa Thánh đã ký một thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc. Trước và ngay sau khi ký thỏa thuận, Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền đối với các tín hữu Công Giáo và các tín hữu của các tôn giáo khác.

Các chính trị gia, và trí thức Công Giáo Anh bày tỏ âu lo rằng khi ký kết hiệp định với một thế lực khét tiếng là tàn bạo như thế, Giáo Hội đang đánh mất đi tư cách là thẩm quyền luân lý của thế giới.

Trong số những người ký tên, có những người rất có ảnh hưởng trong đời sống chính trị tại Anh như Sir David Amess, một dân biểu kỳ cựu từ tháng 6 năm 1983 cho đến nay, hay bà Kathy Sinnott là thành viên Quốc Hội Âu Châu, và Giáo sư David Paton.

Toàn văn tuyên bố như sau:

Chúng tôi những người ký tên dưới đây, viết tuyên bố này để bày tỏ sự thất vọng sâu sắc của chúng tôi trước việc Tòa Thánh gần đây đã thương thảo một “thỏa thuận tạm thời” với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Trong khi những lời lẽ chính thức của thỏa thuận này chưa được công bố, tất cả các dấu chỉ hiện nay cho thấy chính phủ công khai xưng mình là vô thần của Trung Quốc đã được trao một vai trò trong việc lựa chọn các giám mục Công Giáo. Tệ hại hơn nữa, thỏa thuận này diễn ra trong triều đại của Chủ tịch Tập Cận Bình, khi mà người Công Giáo Trung Quốc và các nhóm tôn giáo thiểu số khác, đáng chú ý là những người Hồi giáo Tân Cương, đang phải chịu đựng một sự đàn áp gay gắt nhất trong nhiều thập kỷ qua.

Ủy ban Điều hành Quốc Hội Hoa Kỳ trong báo cáo hàng năm về Trung Quốc đã cảnh báo rằng việc Trung Quốc giam giữ một triệu người Tân Cương trong các trại cải tạo tẩy não “có thể là vụ giam giữ lớn nhất một dân tộc thiểu số kể từ Thế chiến II, và điều này có thể cấu thành các tội ác chống lại loài người”.

Các nhà chức trách Trung Quốc cũng tiếp tục quấy rối, bắt bớ, hoặc giam giữ vô thời hạn và biệt tích một số giáo sĩ Công Giáo hàng đầu, bao gồm cả các Đức Cha Giuliô Giả Chí Quốc và Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn trong năm qua.

Tháng 5 năm 2018, các giám mục do nhà nước áp đặt của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc (CCPA) đã thông qua một kế hoạch 5 năm nhằm “Trung Hoa Hóa” Công Giáo ở Trung Quốc, có nghĩa là bắt buộc niềm tin Kitô của Công Giáo phải tùng phục ý thức hệ chính trị của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Từ năm 2017, các nhà thờ ở Hà Nam, Giang Tây, Chiết Giang, Liêu Ninh và Hà Bắc đã bị buộc phải hủy bỏ các biểu ngữ và hình ảnh có nội dung là các thông điệp tôn giáo, phải treo cờ Cộng sản Trung Quốc, và hát quốc ca trước các buổi lễ. Trẻ em thậm chí bị cấm không được đến nhà thờ. Chỉ tính riêng ở Hà Nam thôi, đã có hàng trăm Kitô hữu bị bắt và Kinh Thánh của họ bị tịch thu, hơn 20 nhà thờ đã bị phá hủy, và hàng trăm thánh giá và các biểu tượng Kitô khác đã bị gỡ bỏ hoặc phá hủy.

Trong bối cảnh vi phạm nhân quyền trầm trọng, và bản chất áp bức của chế độ Tập Cận Bình, không có gì ngạc nhiên khi ta thấy lòng dạ xấu xa của chính phủ Trung Quốc được phơi bày nơi sự hủy diệt gần đây hai đền thánh kính Đức Mẹ của Công Giáo tại Hoa Lục kể từ sau khi ký kết thỏa thuận. Tất cả điều này là điềm báo đáng lo ngại cho hiệp ước Trung Quốc -Vatican như đã từng xảy ra trong các thỏa thuận của Tòa Thánh với các chế độ độc tài toàn trị Âu châu vào đầu thế kỷ 20.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân đã cáo buộc Vatican đưa đàn chiên của mình vào miệng của chó sói. Phán xét của lịch sử có thể còn nặng nề hơn thế nữa.

6. Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Người Nghèo Lần II Chúa Nhật XXXIII Thường Niên 18/11/2018

“Người nghèo này kêu lên, và Chúa lắng nghe họ” (Tv 33,7)

Những lời của Vịnh gia trở thành lời của chính chúng ta khi chúng ta đi gặp những hoàn cảnh đau khổ và loại trừ khác nhau mà rất nhiều anh chị em chúng ta đang sống, những người mà chúng ta thường quen gắn nhãn là “người nghèo”. Vịnh gia không phải là người xa lạ với đau khổ; hoàn toàn ngược lại. Ngài có kinh nghiệm trực tiếp về đói nghèo và biến nó thành một bài ca ngợi và tạ ơn Chúa. Đối với chúng ta đang quan tâm đến nhiều hình thức nghèo khổ khác nhau, Thánh vịnh này cho phép chúng ta ngày hôm nay biết ai là những người thực sự nghèo khổ. Nó giúp chúng ta mở mắt để nhìn thấy họ, nghe tiếng than khóc của họ và nhận ra nhu cầu của họ.

Ngay từ đầu chúng ta được nói cho biết rằng Chúa lắng nghe người nghèo đang kêu lên Ngài; Ngài đối xử tốt với những ai tìm nơi trú ẩn trong Ngài, khi trái tim của họ bị vỡ nát bởi buồn phiền, cô đơn và loại trừ. Chúa lắng nghe những con người dù bị khinh dể trong phẩm giá của mình, vẫn tìm thấy sức mạnh để tìm kiếm nơi Ngài ánh sáng và sự ủi an. Ngài lắng nghe những người bị bức hại nhân danh một thứ công lý sai lầm, bị áp bức bởi những chính sách không xứng tầm với tên gọi, và kinh hoàng bởi bạo lực, nhưng biết rằng Thiên Chúa là Đấng Cứu độ của họ. Điều nổi bật nhất từ lời cầu nguyện này là sự buông bỏ và tín thác vào một người Cha có thể lắng nghe và thấu hiểu. Cùng những dòng này, chúng ta có thể đánh giá cao hơn ý nghĩa của lời nói của Chúa Giêsu: “Phúc thay những ai có tinh thần khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).

Chính kinh nghiệm độc đáo này, và theo nhiều cách, tuy không xứng đáng và không thể diễn đạt hoàn toàn được, mà chúng ta muốn chia sẻ, trước tiên với những người, như Vịnh gia, nghèo khổ, bị từ khước và bị gạt ra bên lề. Không ai lại cảm thấy bị loại trừ khỏi tình yêu của Chúa Cha, đặc biệt là trong một thế giới thường trình bày sự giàu có như là mục tiêu hàng đầu và khép kín vào chính mình.

2. Thánh vịnh 33 sử dụng ba động từ để mô tả người nghèo trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Trước hết, tiếng “kêu”. Nghèo đói không thể tóm tắt trong một từ; nó trở thành tiếng kêu lên trời và thấu tận Thiên Chúa. Tiếng kêu của người nghèo thể hiện điều gì, nếu không phải là nỗi đau khổ và sự cô độc của họ, sự thất vọng và niềm hy vọng của họ? Chúng ta có thể tự hỏi làm sao lời cầu xin của họ, vang lên trước tôn nhan Thiên Chúa, lại có thể không đến được tai của chúng ta, hoặc để mặc chúng ta lạnh lùng và thờ ơ. Vào Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo này, chúng ta được kêu gọi thực hiện một cuộc kiểm điểm lương tâm nghiêm túc, để xem liệu chúng ta có thật sự có khả năng nghe tiếng kêu của người nghèo không.

Để nghe tiếng nói của họ, điều chúng ta cần là sự thinh lặng của những người sẵn sàng lắng nghe. Nếu chúng ta nói quá nhiều, chúng ta sẽ không thể nghe thấy chúng. Đôi khi tôi sợ rằng nhiều sáng kiến, đáng phục và tự nó là cần thiết, có nghĩa nhiều hơn là để thoả mãn những người thực hiện chúng hơn là để đáp trả tiếng kêu thực sự của người nghèo. Nếu đây là trường hợp, tiếng kêu của người nghèo vang lên, nhưng phản ứng của chúng ta không phù hợp và chúng ta không thể cảm thông với tình trạng của họ. Chúng ta bị mắc kẹt trong một nền văn hóa khiến chúng ta nhìn vào trong gương và nuông chiều chính mình, khiến chúng ta nghĩ rằng một cử chỉ vị tha là đủ, mà không cần phải trực tiếp tham gia.

3. Động từ thứ hai là “trả lời”. Vịnh gia nói với chúng ta rằng Chúa không chỉ lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, mà còn trả lời. Câu trả lời của Ngài, như được thấy trong toàn bộ lịch sử cứu độ, là âu yếm chia sẻ số phận người nghèo. Điều đó đã xảy ra khi Ápram nói với Thiên Chúa về ước mong có con nối dõi, mặc dù sự thực là ông và Sarah vợ ông, đã già nua và không có con (xem Sáng thế Ký 15,1-6). Điều đó đã xảy ra khi Môisê, đứng trước một bụi cây rực cháy mà không bị tiêu rụi, đã nhận được sự mặc khải về danh Thiên Chúa và sứ vụ giải phóng dân Chúa khỏi Ai Cập (Xh 3,1-15). Đây cũng là trường hợp trong khi Israel lang thang trong sa mạc, bị đói khát (xem Xh 16,1-6; 17,1-7), và rơi vào loại nghèo đói tồi tệ nhất, nghĩa là, bất trung với giao ước và thờ ngẫu tượng (xem Xh 32,1-14).

Lời đáp trả của Thiên Chúa cho người nghèo luôn luôn là một hành động cứu độ để chữa lành vết thương của cơ thể và tâm hồn, phục hồi công lý và giúp sống cuộc sống khác trong nhân phẩm. Lời đáp trả của Thiên Chúa cũng là một lời kêu gọi những người tin vào Ngài cũng hãy làm như vậy, trong giới hạn của những khả năng con người. Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo mong muốn là một lời đáp trả nhỏ bé mà Giáo hội trên khắp thế giới trao tặng cho những người nghèo thuộc mọi thể loại và trong mọi miền đất, để họ không còn nghĩ rằng tiếng kêu của họ chưa từng được nghe thấy. Nó cũng có thể giống như một giọt nước trong sa mạc nghèo đói, nhưng nó có thể phục vụ như một dấu hiệu của việc chia sẻ với những người thiếu thốn, và cho phép họ cảm nhận sự hiện diện tích cực của một người anh em hoặc một người chị em. Người nghèo không cần người trung gian, mà cần sự tham gia cá nhân của tất cả những ai nghe tiếng kêu của họ. Mối quan tâm của các tín hữu theo cái nhìn của họ thì không thể chỉ giới hạn trong một thứ trợ giúp - hữu ích và có thể tức thời lúc ban đầu - nhưng đòi hỏi một “sự chú tâm tràn ngập yêu thương” (Evangelii Gaudium, 199), kính trọng họ như họ là và tìm lợi ích tốt nhất cho họ.

4. Động từ thứ ba là “giải phóng”. Trong Kinh Thánh, người nghèo sống trong sự xác tín rằng Thiên Chúa can thiệp cho họ để khôi phục phẩm giá của họ. Nghèo đói không phải là điều gì mà người ta mong muốn, nhưng do sự ích kỉ, kiêu căng, tham lam và bất công gây ra. Đây là những điều dữ, cũ rích như chính loài người, nhưng cũng là những tội lỗi mà trong đó người vô tội bị chộp bắt, với những tác động bi thảm ở bình diện đời sống xã hội. Hành vi giải phóng của Thiên Chúa là một hành vi cứu độ cho những ai dâng lên Ngài nỗi buồn khổ và khốn cùng của họ. Mối giây ràng buộc của nghèo đói bị phá vỡ bởi sức mạnh là sự can thiệp của Thiên Chúa. Nhiều Thánh vịnh kể lại và cử hành lịch sử cứu độ này, được phản ánh trong đời sống cá nhân của người nghèo: “Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.”(Tv 22,25). Khả năng nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa là dấu hiệu của tình bạn, sự gần gũi và sự cứu rỗi của Ngài. “ Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn. Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom… nhưng cho con rộng bước thênh thang.” (Tv 31, 8-9). Cho người nghèo được “rộng bước thênh thang” nghĩa là giải thoát khỏi “lưới kẻ thù giăng” (Tv 91, 3); giải thoát họ khỏi cái bẫy ẩn trên đường đi, để họ có thể tiến lên với sự thanh thản trên con đường sự sống. Sự cứu rỗi của Thiên Chúa là một cánh tay giơ ra cho người nghèo, một cánh tay chào đón, bảo vệ và giúp họ trải nghiệm tình bạn mà họ cần. Từ sự gần gũi cụ thể và hữu hình này, một con đường giải thoát đích thực xuất hiện. “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến người nghèo, ngõ hầu họ có thể được hội nhập cách trọn vẹn vào xã hội. Việc này đòi chúng ta phải mở lòng và chăm chú lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và đến cứu giúp họ”(Evangelii gaudium, 187).

5. Tôi cảm động khi biết rằng nhiều người nghèo đồng hoá với người mù ăn xin Batimê mà Tin mừng Máccô nói tới (xem 10, 46-52). Batimê “ đang ngồi ăn xin bên vệ đường” (câu 46); nghe nói Chúa Giêsu đi ngang qua, “anh bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! “ (câu 47). “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng”(câu 48). Con Thiên Chúa nghe tiếng van xin của anh ta và nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? “ Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”“ (câu 51). Câu chuyện Phúc Âm này cho thấy những gì Thánh Vịnh loan báo như một lời hứa. Batimê là một người nghèo, thấy mình thiếu những thứ cần thiết như thị lực và khả năng kiếm sống. Hôm nay có bao nhiêu người cảm thấy như vậy! Thiếu những phương tiện cơ bản của tồn tại, bị gạt ra bên lề vì khả năng làm việc hạn chế, nhiều hình thức nô lệ xã hội, mặc dù tất cả tiến bộ của con người. .. Ngày nay có biết bao nhiêu người nghèo như Batimê, ngồi bên lề đường và tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống của họ! Có bao nhiêu người trong số họ tự hỏi tại sao họ đã rơi xuống tận cùng như thế và làm thế nào để có thể trốn thoát! Họ đang chờ ai đó đến với họ và nói: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”(câu 49).

Đáng buồn thay, điều ngược lại thường xảy ra, và người nghèo nghe thấy những tiếng nói trách mắng họ, bảo họ im lặng và cam chịu. Những tiếng nói này thường nghiêm khắc, thường là do sợ người nghèo, những người được xem là không chỉ thiếu thốn mà còn mang đến bất an và bất ổn, làm thay đổi thói quen và cần phải bị từ chối và tránh xa. Chúng ta có xu hướng tạo ra khoảng cách giữa họ và chúng ta, mà không nhận ra rằng theo cách này, chúng ta đang tách mình khỏi Chúa Giêsu, Đấng không từ chối người nghèo, nhưng gọi họ đến gần và an ủi họ. Những lời của Tiên tri Isaia nói cho các tín hữu biết cách sống là thích hợp nhất trong trường hợp này. Họ phải “mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ… thấy ai mình trần thì cho áo che thân”(58, 6-7). Những việc như vậy làm cho tội lỗi được tha thứ (xem 1 Pr 4, 8), công lý được sáng tỏ, và khi chúng ta kêu lên với Chúa, Ngài sẽ trả lời và nói: “Này Ta đây!” (Xem Is 58, 9).

6. Người nghèo là người đầu tiên nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và làm chứng cho sự gần gũi của Ngài trong cuộc sống của họ. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa của Ngài; và ngay cả trong bóng tối của đêm đen, Ngài vẫn không khước từ sự ấm áp của tình yêu và sự an ủi của Ngài. Tuy nhiên, để người nghèo vượt qua tình trạng nặng nề của họ, họ cần phải cảm nhận sự hiện diện của các anh chị em đang quan tâm đến họ và, bằng cách mở cánh cửa trái tim và cuộc sống, khiến họ cảm thấy như bạn bè và gia đình. Chỉ bằng cách này, người nghèo mới có thể khám phá “quyền năng cứu độ đang hành động trong cuộc sống của họ” và “đặt họ vào trung tâm của cuộc hành hương của Giáo hội” (Evangelii Gaudium, 198).

Vào Ngày Quốc tế này, chúng ta được yêu cầu thực hành những lời của Thánh Vịnh: “Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê” (Tv 22,26). Chúng ta biết rằng trong Đền Thờ Giêrusalem, sau nghi thức hiến tế, một bữa tiệc được bày ra. Chính kinh nghiệm này, trong nhiều giáo phận năm ngoái, làm phong phú thêm việc cử hành Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo lần đầu tiên. Nhiều người gặp được sự ấm áp của một ngôi nhà, niềm vui của một bữa tiệc và sự liên đới của những người muốn ngồi bàn cùng nhau cách đơn sơ và huynh đệ. Tôi muốn năm nay, và tất cả các Ngày Quốc tế tương lai, được tổ chức theo tinh thần của niềm vui khi khám phá lại khả năng sống cùng nhau. Cầu nguyện với nhau như một cộng đoàn và chia sẻ một bữa ăn vào ngày Chúa Nhật là một kinh nghiệm đưa chúng ta trở lại cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, được mô tả bởi Luca, tác giả sách Tin mừng, trong tất cả sự đơn sơ nguyên thủy của nó: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. (Cv 2,42.44-45).

7. Vô số các sáng kiến được thực hiện hàng ngày bởi cộng đoàn Kitô giáo để trao ban sự gần gũi và cánh tay giúp đỡ khi đối mặt với nhiều hình thức nghèo đói xung quanh chúng ta. Thông thường, sự hợp tác của chúng ta với các sáng kiến khác được truyền cảm hứng không phải bởi đức tin mà bởi sự liên đới nhân bản, làm cho việc giúp đỡ chúng ta có thể thực hiện được, bằng không chúng ta không thể trao ban. Nhận thức rằng khi đối mặt với biết bao nghèo đói, năng lực hành động của chúng ta bị giới hạn, yếu kém và không đủ, dẫn chúng ta tiếp cận với người khác để thông qua hợp tác lẫn nhau, chúng ta có thể đạt được mục tiêu của mình hiệu quả hơn. Kitô hữu chúng ta được truyền cảm hứng bởi đức tin và luật bác ái, nhưng chúng ta cũng có thể thừa nhận các hình thức hỗ trợ và liên đới khác nhắm phần nào đó đến cùng mục tiêu, miễn là chúng ta không làm giảm vai trò cụ thể của chúng ta, đó là dẫn đưa mọi người đến cùng Thiên Chúa và sự thánh thiện. Đối thoại giữa những trải nghiệm khác nhau và sự khiêm tốn trong việc cộng tác mà không cần tìm kiếm sự vẻ vang, là một câu trả lời phù hợp và hoàn toàn phúc âm mà chúng ta có thể cung cấp.

Trong việc phục vụ người nghèo, không có chỗ cho sự cạnh tranh. Thay vào đó, chúng ta nên khiêm nhường nhận ra rằng Chúa Thánh Thần là nguồn gốc của các hành động của chúng ta để tỏ lộ sự gần gũi của Thiên Chúa và sự đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta. Khi chúng ta tìm kiếm những nẻo đường đến gần người nghèo, chúng ta biết rằng vai trò thứ nhất thuộc về Thiên Chúa, Đấng mở mắt và tấm lòng của chúng ta để hoán cải. Người nghèo không cần những người quảng cáo chính mình, mà là một tình yêu biết cách giữ kín và không nghĩ về tất cả những điều tốt đẹp mà nó có thể làm được. Chúa và người nghèo phải luôn luôn ở trung tâm. Bất cứ ai ham muốn phục vụ là một công cụ trong tay của Thiên Chúa, một phương tiện biểu lộ sự hiện diện cứu độ của Ngài. Thánh Phaolô nhắc lại điều này khi ngài viết thư cho các kitô hữu ở Côrinhtô đang cạnh tranh vì các ân huệ lớn lao hơn: “Mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày.”“(1 Cr 12,21). Phaolô đưa ra một điểm quan trọng khi lưu ý rằng những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất (xem câu 22), và rằng “những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả.”(câu 23-24). Phaolô cung cấp cho cộng đoàn một giáo lý căn bản về ân sủng, nhưng cũng còn về thái độ mà lẽ ra phải có, trong ánh sáng của Tin Mừng, đối với các thành viên yếu đuối hơn và thiếu thốn hơn. Các môn đồ của Chúa Kitô không hề nuôi dưỡng những cảm xúc khinh thường hoặc thương hại đối với người nghèo. Trái lại, chúng ta được kêu gọi tôn trọng người nghèo và dành ưu tiên cho họ, khởi từ xác tín rằng họ là một sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

8. Ở đây chúng ta có thể thấy lối sống của chúng ta phải khác xa lối sống của trần gian, lối sống đề cao, theo đuổi và bắt chước người giàu và người quyền thế, trong khi bỏ bê người nghèo và coi họ vô dụng và đáng xấu hổ. Những lời của Tông đồ Phaolô mời chúng ta đến một sự liên đới hoàn toàn mang tính Tin mừng với những thành viên yếu đuối hơn và ít tài năng hơn trong thân thể Đức Kitô: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung”(1 Cr 12,26). Trong thư gửi cho người Rôma, thánh Phaolô cũng nói với chúng ta: “Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn (12,15-16). Đây là ơn gọi của mỗi kitô hữu; lý tưởng mà chúng ta phải liên tục phấn đấu là nên đồng hình đồng dạng hơn nữa với “tâm tình của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5).

9. Đức tin đương nhiên truyền cảm hứng cho một sứ điệp hy vọng. Thường thì chính người nghèo phá vỡ sự thờ ơ của chúng ta, được sinh ra từ một quan điểm sống trần tục và hẹp hòi. Tiếng kêu của người nghèo cũng là tiếng kêu của hy vọng tỏ lộ sự xác tín về sự giải thoát trong tương lai. Niềm hy vọng này đặt nền tảng trên tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi những ai đặt niềm tin vào Ngài (xem Rm 8,31-39). Như thánh Têrêxa Avila viết trong Đường Hoàn Thiện: “Nghèo đói bao gồm nhiều đức hạnh. Đây là một lãnh vực rộng lớn. Tôi nói với bạn rằng ai khinh chê của cải trần thế đều là chủ nhân của mọi sự”(2,5). Chính trong mức độ mà chúng ta có thể phân biệt được sự thiện đích thực, chúng ta trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa và khôn ngoan trong chính mắt của chúng ta và trong con mắt của những người khác. Nó thực sự là như vậy. Trong phạm vi mà chúng ta hiểu được ý nghĩa thực sự của sự giàu có, chúng ta lớn lên trong nhân tính và có khả năng chia sẻ.

10. Tôi mời gọi các giám mục, linh mục và đặc biệt là các phó tế, những người đã nhận được sự đặt tay để phục vụ người nghèo (xem Cv 6,1-7), cũng như các tu sĩ và tất cả tín hữu giáo dân – nam cũng như nữ - đang ở trong giáo xứ, các hiệp hội và các phong trào giáo hội, làm cho nên hữu hình lời đáp trả của Giáo Hội đối với tiếng kêu của người nghèo, để trải nghiệm Ngày Quốc tế này như một thời điểm nổi bật của việc phúc âm hoá mới. Người nghèo phúc âm hoá chúng ta và giúp chúng ta mỗi ngày khám phá ra vẻ đẹp của Tin Mừng. Chúng ta đừng lãng phí cơ hội đầy ân sủng này. Vào ngày này, tất cả chúng ta có thể cảm thấy rằng chúng ta đang mắc nợ người nghèo, bởi vì, trong bàn tay đang dang rộng với nhau, một cuộc gặp gỡ cứu độ có thể diễn ra để củng cố đức tin của chúng ta, truyền cảm hứng cho lòng bác ái của chúng ta và cho phép niềm hy vọng tiến bước cách vững vàng trên con đường hướng tới Chúa là Đấng sẽ đến.

Từ Vatican, ngày 13 tháng 6 năm 2018

Nhân ngày lễ thánh Antôn thành Padua

+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô